Cùng phongthuyphuongdong tìm hiểu về kinh phật cũng như nghi thức tụng Kinh Vô Lượng Thọ

kinh-phat
Nghi thức tụng Kinh Vô Lượng Thọ

 

I. NGUYỆN HƯƠNG

(Quì gối đưa nhang lên nguyện hương)

Nguyện mây hương mầu này

Khắp cùng mười phương cõi

Cúng dường tất cả Phật

Tôn pháp, các Bồ Tát

Vô biên chúng Thanh Văn

Và cả thảy Thánh Hiền

Duyên khởi đài sáng chói

Trùm đến vô biên cõi,

Khắp xông các chúng sanh

Đều phát lòng bồ đề,

Hết một báo thân này

Sanh về cõi Cực Lạc.

Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát (1 lạy)

II. TÁN THÁN PHẬT

(Đứng Lên Đánh Khánh Tụng)

Sắc Thân Như Lai đẹp, trong đời không ai bằng, không sánh, chẳng nghĩ bàn, nên nay con đảnh lễ.

Sắc thân Phật vô tận, trí huệ Phật cũng thế, tất cả pháp thường trú, cho nên con về nương. Sức chí lớn nguyện lớn, khắp độ chúng quần sanh, khiến bỏ thân nóng khổ, sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp, qui y và lễ tán, nguyện cùng các chúng sanh, đồng sanh nước Cực Lạc.

(Đại Chúng Đồng Tụng Nhất Tâm Đảnh Lễ)

III. NHẤT TÂM ĐẢNH LỄ:

Nam Mô Thường Tịch Quang Tịnh Độ

A Di Đà Như Lai

Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh

Khắp Pháp Giới Chư Phật. o (1 lạy)

Nam Mô Thật Báo Trang Nghiêm Độ

A Di Đà Như Lai

Thân Tướng Hải Vi Trần

Khắp Pháp Giới Chư Phật. o (1 lạy)

Nam Mô Phương Tiện Thánh Cư Độ

A Di Đà Như Lai

Thân Trang Nghiêm Giải Thóat

Khắp Pháp Giới Chư Phật. o (1 lạy)

Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây

A Di Đà Như Lai

Thân Căn Giới Đại Thừa

Khắp Pháp Giới Chư Phật. o (1 lạy)

Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây

A Di Đà Như Lai

Thân Hóa Đến Mười Phương

Khắp Pháp Giới Chư Phật. o (1 lạy)

Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây

Giáo Hạnh Lý Ba Kinh

Tột Nói Bày Y Chánh

Khắp Pháp Giới Tôn Pháp. o (1 lạy)

Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây

Quán Thế Âm Bồ Tát

Thân Tử Kim Muôn ức

Khắp Pháp Giới Bồ Tát. o (1 lạy)

Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây

Đại Thế Chí Bồ Tát

Thân Trí Sáng Vô Biên

Khắp Pháp Giới Bồ Tát o (1 lạy)

Nam Mô Cõi An Lạc Phương Tây

Thanh Tịnh Đại Hải Chúng

Thân Hai Nghiêm Phước Trí

Khắp Pháp Giới Thánh Chúng. o (1 lạy)

IV. CỬ TÁN

(Đại chúng đồng tụng theo tiếng mõ)

Lư hương vừa ngún chiên đàn,

Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,

Lòng con kính ngưỡng thiết tha,

Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

V. BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN

Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần)

Lạy đấng tam giới tôn

Quy mạng mười phương Phật

Nay con phát nguyện lớn

Trì tụng kinh Vô Lượng Thọ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ ba đường

Nếu có ai thấy nghe

Đều phát Bồ đề tâm

Khi mãn báo thân này

Sanh qua cõi Cực lạc.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)

VI. BÀI KỆ KHAI KINH

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Nay con nghe thấy chuyên trì tụng,

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam Mô Đại Thừa Vô Lượng Thọ Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ

 

QUYỂN THƯỢNG

 

VII. PHẦN TỰ

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở trên núi Linh Thứu gần thành Vương Xá, cùng câu hội với 12.000 vị đại Tỳ-kheo. Tất cả đại Thánh, thần thông đã đạt. Tên của các vị ấy là:

– Tôn giả Liễu Bổn Tế,

– Tôn giả Chánh Nguyện,

– Tôn giả Chánh Ngữ,

– Tôn giả Đại Hiệu,

– Tôn giả Nhân Hiền,

– Tôn giả Ly Cấu,

– Tôn giả Danh Văn,

– Tôn giả Thiện Thật,

– Tôn giả Cụ Túc,

– Tôn giả Ngưu Vương,

– Tôn giả Ưu-lâu Tần-loa-ca-diếp,

– Tôn giả Già-da Ca-diếp,

– Tôn giả Na-đề Ca-diếp,

– Tôn giả Ma-ha Ca-diếp,

– Tôn giả Xá-lợi-phất,

– Tôn giả Đại Mục-kiền-liên,

– Tôn giả Kiếp-tân-na,

– Tôn giả Đại Trụ,

– Tôn giả Đại Tịnh Chí,

– Tôn giả Ma-ha Châu-na,

– Tôn giả Mãn Nguyện Tử,

– Tôn giả Ly Chướng,

– Tôn giả Lưu Quán,

– Tôn giả Kiên Phục,

– Tôn giả Diện Vương,

– Tôn giả Quả Thừa,

– Tôn giả Nhân Tánh,

– Tôn giả Hỷ Lạc,

– Tôn giả Thiện Lai,

– Tôn giả La-vân,

– Tôn giả A-Nan,

– Và các bậc thượng thủ khác như thế.

Lại có chư đại Bồ-Tát Ma-ha-tát câu hội, gồm có Phổ Hiền Bồ-Tát, Diệu Đức Bồ-Tát, Từ Thị Bồ-Tát, và các đại Bồ-Tát khác như vậy.

Tất cả chư Bồ-Tát trong Hiền kiếp này cũng đều đến hội họp.

Lại có 16 vị Chánh sĩ, gồm có:

– Hiền Hộ Bồ-Tát,

– Thiện Tư Nghị Bồ-Tát,

– Tuệ Biện Tài Bồ-Tát (1),

– Tín Tuệ Bồ-Tát,

– Không Vô Bồ-Tát,

– Thần Thông Hoa Bồ-Tát,

– Quang Anh Bồ-Tát,

– Tuệ Thượng Bồ-Tát,

– Trí Tràng Bồ-Tát,

– Tịch Căn Bồ-Tát,

– Nguyện Tuệ Bồ-Tát,

– Hương Tượng Bồ-Tát,

– Bảo Anh Bồ-Tát,

– Trung Trụ Bồ-Tát,

– Chế Hành Bồ-Tát,

– Và Giải Thoát Bồ-Tát.

Hết thảy họ đều tu theo đức của Phổ Hiền Đại sĩ. Đầy đủ vô lượng hạnh nguyện của chư Bồ-Tát và an trụ trong tất cả Pháp công đức. Các ngài du hý đến mười phương và khéo dùng quyền xảo phương tiện. Nhập Phật Pháp Tạng để đạt tới cứu cánh Niết-bàn và hiện thành đẳng giác trong vô lượng thế giới.

1. Đức Bồ-Tát Thành Đạo

Lúc bấy giờ, Đức Bồ-Tát trụ ở trời Đâu-suất và rộng tuyên Chánh Pháp. Rồi ngài rời thiên cung và giáng thần vào thai mẹ. Sau đó, từ hông bên phải hạ sanh và đi bảy bước. Khi ấy, ánh hào quang sáng rực, phổ chiếu khắp mười phương, vô lượng Phật độ chấn động sáu cách, và cất lên tiếng tự xưng rằng:

“Ta sẽ ở thế gian làm bậc Vô Thượng Tôn!”

Lúc đó, Đế-thích và Phạm Vương đến hầu cận phụng sự. Trời người kính ngưỡng quy y.

Đức Bồ-Tát thị hiện học toán số văn chương, bắn cung cưỡi ngựa, đạo thuật uyên bác, và thông suốt mọi sách điển. Ngài hay vui chơi ở hậu viên và luận võ thi tài. Tuy ở trong vương cung nhưng không hề nhiễm sắc vị. Khi thấy sanh lão bệnh tử, Đức Bồ-Tát ngộ lý vô thường, rồi từ bỏ quốc gia, tài bảo, và ngôi vị để vào rừng học Đạo. Ngài cưỡi trên lưng ngựa trắng. Sau đó, ngài lấy mũ báu và xâu chuỗi anh lạc gửi trở về.

Lúc ấy, Đức Bồ-Tát cởi xuống y bào và khoác lên Pháp y, rồi cạo bỏ râu tóc và tĩnh tọa sáu năm khổ hạnh. Bởi thị hiện trong đời năm trược nên cũng tùy thuận quần sanh mà thân thể có bụi dơ. Sau đó ngài đi đến bờ sông Ni-Liên tắm gội. Khi ấy, chư thiên ấn nhánh cây xuống để ngài vịn ra khỏi dòng nước và các loài chim linh thiêng cũng bay theo đến Đạo Tràng. Lúc đó có mục đồng dâng lên cỏ để biểu thị cho sự cát tường, phước tuệ sắp viên mãn. Đức Bồ-Tát từ bi lãnh thọ, trải làm tòa và ngồi kiết già dưới gốc cây. Khi sắp thành Đạo, thân Bồ-Tát phóng đại quang minh. Ma vương hay được nên thống lãnh chúng ma quyến thuộc đến thử thách và quấy nhiễu. Tuy nhiên, ngài dùng trí lực nên khiến đều hàng phục. Sau đó, Đức Bồ-Tát đắc diệu Pháp và thành Tối Chánh Giác.

Bấy giờ, Thiên Chủ Đế-thích đến và Đại Phạm Thiên Vương thỉnh chuyển Pháp luân. Rồi Ngài bước theo hạnh của Phật, hống tiếng Phật, đánh trống Pháp, thổi loa Pháp, cầm kiếm Pháp, dựng Pháp tràng, nổi Pháp lôi, chớp Pháp điện, mưa Pháp vũ, và diễn Pháp thí. Đức Phật thường dùng Pháp âm để giác ngộ thế gian. Hào quang chiếu khắp vô lượng Phật độ, tất cả thế giới đều chấn động sáu cách, và tổng nhiếp ma giới. Khi đó ma cung lung lay, chúng ma khiếp sợ và không ai là chẳng quy phục. Đức Phật xé tan màn lưới tà, tiêu diệt tà kiến, tống đuổi trần lao, phá hủy hố dục, trang nghiêm và hộ trì Pháp thành. Ngài khai mở Pháp môn, tẩy sạch nhiễm ô, hiển bày tự tánh thanh tịnh cho quần mê và làm cho Chánh Pháp lưu truyền, vẻ vang Phật Pháp.

Lúc bấy giờ, Đức Phật đi vào thành khất thực để làm nơi phước điền công đức cho chúng sanh gieo trồng. Ngài mỉm cười và muốn tuyên thuyết Chánh Pháp. Ngài dùng Pháp dược để chữa trị tam khổ, hiển bày Đạo ý, và thị hiện vô lượng công đức. Ngài lại vì chư Bồ-Tát mà thọ ký họ sẽ thành Phật quả. Sau cùng, Ngài thị hiện nhập diệt để độ thoát vô lượng chúng sanh, tiêu trừ các lậu, và giúp chúng sanh gieo trồng căn lành.

Đức Phật có đầy đủ công đức, vi diệu khó suy lường. Ngài lại du hành đến các quốc độ của chư Phật để phổ hiện Đạo giáo. Sự tu hành của Ngài đều thanh tịnh không dơ. Đây ví như nhà huyễn thuật khéo hiển bày những dị tượng lạ thường. Hiện làm người nam hay làm người nữ, hoặc hiện ra bất kỳ thân hình nào và ở nơi bổn học đều thông đạt, tùy ý tự tại.

2. Bồ-Tát Đạo

Chư Bồ-Tát đây cũng lại như vậy. Tu học, thực hành, thông suốt tất cả pháp, an trụ nơi chân đế, thương xót và cảm hóa chúng sanh. Các ngài hóa hiện khắp vô số Phật độ mà chưa từng kiêu mạn hay phóng dật. Tất cả Kinh điển, chư Bồ-Tát hạnh và các Pháp như vậy thảy đều thông suốt. Thế nên danh xưng và Đạo hạnh vang khắp mười phương và luôn được vô lượng chư Phật hộ niệm. Bồ-Tát trụ nơi Phật an trụ, xiển dương giáo Pháp mà bậc Đại Thánh đã an lập. Dưới sự giáo hóa của Như Lai, các ngài khéo thực hành Bồ-Tát Đạo, làm bậc đại Đạo sư, tuyên dương chánh Đạo, và dùng trí tuệ thậm thâm của thiền định để khai đạo chúng mê. Thông đạt các pháp tánh, thấu rõ tướng của chúng sanh và cõi nước của họ.

Khi Bồ-Tát cúng dường chư Phật, thân liền hiện ra như tia điện chớp. Bồ-Tát lại khéo tu học Pháp vô úy, hiểu rõ các pháp như huyễn, xé tan vòng lưới ma, và giải thoát mọi sự ràng buộc. Nơi hạnh làm siêu việt hơn hàng Thành Văn và bậc Duyên Giác; đắc Không, Vô Tướng, Vô Nguyện Tam-muội. Với thiện xảo phương tiện, Bồ-Tát hiện ra ở cả Ba Thừa, rồi thị hiện diệt độ ở bậc trung và hạ căn. Lại biết rõ chư pháp đều vô tác, vô hữu, bất khởi, bất diệt, nên được sự bình đẳng của pháp. Các căn thanh tịnh, trí tuệ vẹn đủ, đắc vô lượng tổng trì và trăm ngàn tam-muội. Trụ sâu trong chánh định quảng đại, thâm nhập Pháp Tạng của Bồ-Tát, và chứng được Phật Hoa Nghiêm Tam-muội. Sau đó, tuyên dương và diễn nói tất cả Kinh điển.

Lúc ở trong định, Bồ-Tát thấy vô lượng chư Phật hiện ra ở trước họ. Trong một niệm khoảnh, có thể ở cùng khắp mọi nơi để cứu hộ chúng sanh ra khỏi ách nạn. Lại khéo phân biệt và hiển bày các Pháp chân thật nên đắc trí tuệ biện tài của chư Như Lai, có thể thấu rõ tất cả ngôn ngữ của chúng sanh để giáo hóa họ hết thảy. Tâm Bồ-Tát siêu vượt ra khỏi các pháp hữu vi của thế gian và luôn an trụ nơi chánh Đạo. Đối với hết thảy vạn vật đều tùy ý tự tại. Bồ-Tát lại vì chúng sanh mà tình nguyện làm người bạn chưa hề quen biết và gánh vác nghiệp tội thâm trọng giùm họ.

Bồ-Tát như vậy luôn thọ trì Pháp Tạng sâu xa của Như Lai. Hộ trì chủng tánh Phật và chẳng để đoạn tuyệt. Bồ-Tát lại khởi lòng đại bi, lân mẫn chúng sanh và diễn bày phương tiện, khiến họ có được Pháp nhãn, dứt trừ tam ác đạo, và mở cánh cửa thiện đạo. Bồ-Tát luôn vì chúng sanh mà thuyết Pháp và không cần phải đợi thỉnh mời. Bồ-Tát ví như người con hiếu thảo yêu kính cha mẹ. Bồ-Tát xem chúng sanh như bản thân mình. Vì thế hết thảy thiện căn đều rộng hồi hướng nên thành tựu được bất khả tư nghị trí tuệ và vô lượng công đức của chư Phật.

3. Tôn Giả A-Nan Thỉnh Pháp

Lúc bấy giờ có vô lượng Đại sĩ, không thể tính đếm kể số Bồ-Tát như vậy, đều đồng đến hội họp. Khi ấy các căn của Thế Tôn hòa vui, sắc tướng thanh tịnh và nét mặt tươi sáng. Bấy giờ Tôn giả A-Nan nương uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, hai gối quỳ và chắp tay bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Hôm nay các căn của Ngài hòa vui, sắc tướng thanh tịnh và nét mặt tươi sáng. Sáng rõ như gương, trong ngoài ảnh hiện thông suốt. Uy dung chói lọi, siêu tuyệt vô lượng. Từ nào đến giờ, con chưa từng thấy được sự thù thắng vi diệu như hôm nay. Kính thưa bậc Đại Thánh, tâm con khởi nghĩ rằng:

– Nay Đức Thế Tôn trụ nơi Pháp kỳ diệu.

– Nay Đức Thế Hùng trụ nơi chư Phật trụ.

– Nay Đức Thế Nhãn trụ nơi hạnh của bậc Đạo sư.

– Nay Đức Thế Anh trụ nơi Đạo tối thắng.

– Nay Đức Thiên Tôn hành Như Lai đức.

Chư Phật thuở quá khứ, hiện tại cùng vị lai đều tương niệm lẫn nhau. Có phải nay Thế Tôn cũng đang tưởng niệm chư Phật chăng, và vì sao uy thần của Ngài sáng chói như vậy?”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Này A-Nan! Có phải chư Thiên dạy ông đến hỏi Như Lai? Hay ông hỏi uy nhan của Như Lai là do trí tuệ tự thấy?”

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Không có chư thiên đến dạy con, mà do con tự dùng trí tuệ để hỏi nghĩa ấy.”

Đức Phật bảo:

“Lành thay, A-Nan! Điều ông hỏi rất hay. Ông có trí tuệ thâm sâu và biện tài rất vi diệu. Ông vì thương xót chúng sanh nên khéo hỏi nghĩa ý như vậy.

Như Lai vì lòng đại bi vô tận với chúng sanh trong Tam Giới nên mới thị hiện ở đời, để xiển dương Đạo giáo, cứu độ chúng sanh và chỉ bày sự lợi ích chân thật. Chư Phật xuất thế hiếm như hoa ưu-đàm nở, dù cả vô lượng ức kiếp cũng khó được gặp thấy. Điều ông hỏi hôm nay sẽ có lợi ích rất lớn cho hàng trời người.

Này A-Nan! Ông nên biết Chánh Giác của Như Lai, trí tuệ ấy khó suy lường, có thể chỉ dẫn chúng sanh đến bờ giải thoát. Tuệ kiến đó là vô ngại, không gì có thể ngăn trừ. Với chỉ một bữa ăn, thọ mạng của Như Lai có thể sống đến trăm ngàn ức kiếp, vô số vô lượng, và còn hơn số đó nữa. Cho dù thời gian ấy đã hết, các căn của Như Lai vẫn hòa vui, cũng chẳng bị suy hoại, sắc tướng không biến đổi, và uy dung không hề khác đi. Vì sao được như vậy? Đó là vì định tuệ của Như Lai viên mãn đến tột cùng và trong tất cả pháp đều được tự tại. Hãy lắng nghe A-Nan! Ta sẽ thuyết giảng cho ông.”

Ngài A-Nan thưa rằng:

“Dạ vâng! Con vui thích muốn nghe.”

VIII. PHẦN CHÁNH TÔNG

1. 54 Vị Phật Kế Nhau Xuất Thế

Phật bảo ngài A-Nan:

“Vào thuở quá khứ vô lượng bất khả tư nghị vô số kiếp xa xưa về trước, lúc ấy có Đức Phật xuất thế, hiệu là Nhiên Đăng Như Lai (2). Ngài giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh, khiến họ đều đắc Đạo rồi mới nhập Niết-bàn.

– Kế đến có Như Lai, hiệu là Quang Viễn.

– Kế đến là Nguyệt Quang.

– Kế đến là Chiên Đàn Hương.

– Kế đến là Thiện Sơn Vương.

– Kế đến là Tu-di Thiên Quan.

– Kế đến là Tu-di Đẳng Diệu.

– Kế đến là Nguyệt Sắc.

– Kế đến là Chánh Niệm.

– Kế đến là Ly Cấu.

– Kế đến là Vô Trước.

– Kế đến là Long Thiên.

– Kế đến là Dạ Quang.

– Kế đến là An Minh Đảnh.

– Kế đến là Bất Động Địa.

– Kế đến là Lưu Ly Diệu Hoa.

– Kế đến là Lưu Ly Kim Sắc.

– Kế đến là Kim Tạng.

– Kế đến là Diễm Quang.

– Kế đến là Diễm Căn.

– Kế đến là Địa Chủng.

– Kế đến là Nguyệt Tượng.

– Kế đến là Nhật Âm.

– Kế đến là Giải Thoát Hoa.

– Kế đến là Trang Nghiêm Quang Minh.

– Kế đến là Hải Giác Thần Thông.

– Kế đến là Thủy Quang.

– Kế đến là Đại Hương.

– Kế đến là Ly Trần Cấu.

– Kế đến là Xả Yếm Ý.

– Kế đến là Bảo Diễm.

– Kế đến là Diệu Đảnh.

– Kế đến là Dũng Lập.

– Kế đến là Công Đức Trì Tuệ.

– Kế đến là Tế Nhật Nguyệt Quang.

– Kế đến là Nhật Nguyệt Lưu Ly Quang.

– Kế đến là Vô Thượng Lưu Ly Quang.

– Kế đến là Tối Thượng Thủ.

– Kế đến là Bồ-đề Hoa.

– Kế đến là Nguyệt Minh.

– Kế đến là Nhật Quang.

– Kế đến là Hoa Sắc Vương.

– Kế đến là Thủy Nguyệt Quang.

– Kế đến là Trừ Si Minh.

– Kế đến là Độ Cái Hạnh.

– Kế đến là Tịnh Tín.

– Kế đến là Thiện Tú.

– Kế đến là Uy Thần.

– Kế đến là Pháp Tuệ.

– Kế đến là Loan Âm.

– Kế đến là Sư Tử Âm.

– Kế đến là Long Âm.

– Kế đến là Xử Thế.

Và sau khi các Đức Phật như vậy lần lượt nhập diệt, lúc bấy giờ tiếp đến có Đức Phật xuất thế, hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.”

2. Tỳ kheo Pháp Tạng Phát Tâm Kiến Lập Tịnh Độ

“Khi ấy có một vị quốc vương, sau khi nghe Phật thuyết Pháp, liền sanh tâm hoan hỷ và phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Rồi ngài xả bỏ quốc gia và vương vị để trở thành Sa-môn, hiệu là Pháp Tạng, là bậc anh tài xuất chúng, có trí tuệ siêu việt khác thường. Sau đó, ngài đến Đạo Tràng của Thế Tự Tại Vương Như Lai, rồi cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, nhiễu ba vòng bên phải, hai gối quỳ, chắp tay và dùng kệ tán thán:

‘Quang nhan sáng lồng lộng

Uy thần chí vô cực

Chói lòa như ánh lửa

Không ai sánh kịp hơn

Nhật nguyệt ma-ni châu

Tỏa sáng tuy chiếu rực

Cũng bị che ẩn khuất

Tối đen như vũng mực

Tôn dung Đức Như Lai

Siêu việt xuất thế gian

Chánh Giác đại âm thanh

Mười phương lưu biến vang

Đa văn giới tinh tấn

Tam-muội trí tuệ lực

Uy đức vô đẳng đẳng

Hy hữu thù thắng thay

Trụ sâu trong thiện niệm

Nhập vào biển Phật Pháp

Thâm áo diệu vô cùng

Rõ thông tận đáy sâu

Vô minh ái dục sân

Thế Tôn vĩnh dứt trừ

Nhân hùng bậc sư tử

Thần đức diệu khôn lường

Công đức rộng lớn sâu

Trí tuệ thâm diệu mầu

Quang minh uy tướng hiện

Chấn động cõi đại thiên

Nguyện con khi thành Phật

Làm bậc Thánh Pháp Vương

Hóa độ quần chúng mê

Thoát ly sanh tử đồ

Bố thí luôn trì giới

Nhẫn nhục hằng tinh tấn

Thiền định trụ như như

Trí tuệ siêu đệ nhất

Nguyện con khi thành Phật

Rộng hành lời nguyện này

Tất cả sợ hãi kinh

Thảy đều được an bình

Giả như có chư Phật

Trăm ngàn ức vạn muôn

Vô lượng chư Đại Thánh

Số như cát sông Hằng

Con thảy đều cúng dường

Chư Phật Đức Như Lai

Quyết tâm cầu chánh Đạo

Kiên định chẳng động dao

Thế giới của chư Phật

Ví như Hằng Hà sa

Không sao tính đếm xuể

Vô số Phật sát độ

Quang minh đều chiếu soi

Châu biến các nước ấy

Tinh tấn cũng như vậy

Uy thần diệu khôn lường

Nguyện con khi thành Phật

Cõi nước thù thắng nhất

Trang nghiêm tối diệu kỳ

Đạo Tràng siêu tuyệt vi

Quốc độ như Niết-bàn

An vui không gì sánh

Từ bi con thương xót

Độ thoát chúng quần sanh

Chúng sanh khắp mười phương

Vãng sanh về nước con

Tâm ý vui thanh tịnh

Luôn hưởng mãi yên bình

Nguyện Phật từ chứng minh

Con xin lập hoằng thệ

Phát nguyện trước Như Lai

Gắng sức chóng viên thành

Thập phương chư Thế Tôn

Vô ngại trí tuệ quang

Như Lai thường rõ biết

Am hiểu tâm hạnh con

Dù bị đau khôn xiết

Chúng khổ giày xéo thân

Con luôn gắng tu hành

Kham nhẫn chẳng từ nan'”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Khi đã xướng lên bài kệ đó xong, Tỳ-kheo Pháp Tạng bạch Phật rằng:

‘Kính bạch Đức Thế Tôn! Con đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nguyện Đức Phật vì con rộng nói Kinh Pháp để con theo đó tu hành và sẽ thành tựu cõi nước Phật, thanh tịnh trang nghiêm, vô lượng vi diệu. Lại khiến con mau thành Chánh Giác và bạt trừ gốc rễ thống khổ của sanh tử.’ ”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Khi ấy Đức Phật Thế Tự Tại Vương bảo Tỳ-kheo Pháp Tạng:

‘Trang nghiêm Phật độ và tu hành như thế nào thì chính ông cũng đã tự biết.’

Tỳ-kheo Pháp Tạng bạch Phật rằng:

‘Nghĩa ấy sâu rộng, vượt ra ngoài cảnh giới của con. Duy nguyện Thế Tôn hãy rộng diễn bày các hạnh làm của chư Phật Như Lai lúc kiến lập cõi tịnh độ. Khi nghe xong, con sẽ như Pháp tu hành và sớm hoàn thành sở nguyện.’

Lúc bấy giờ, Đức Phật Thế Tự Tại Vương biết được chí nguyện hoằng thâm và quảng đại của Tỳ-kheo Pháp Tạng nên liền dạy rằng:

‘Ví như có người lấy thùng múc nước trong biển lớn. Trải qua nhiều số kiếp thì cũng sẽ cạn đến đáy và người đó lấy được những kỳ trân diệu bảo. Cũng như vậy, nếu có ai chí tâm tinh tấn và cầu Đạo chẳng thôi nghỉ thì tất sẽ đắc quả. Không có nguyện gì mà chẳng thành.’

Khi đó, Đức Phật Thế Tự Tại Vương liền rộng nói 210 ức chư Phật sát độ, và ứng theo tâm nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng mà hiện ra tất cả cõi nước thô diệu, trời người ở nơi đó, hoặc thiện hay ác.

Lúc bấy giờ, Tỳ-kheo Pháp Tạng nghe Phật thuyết giảng về các cõi nước thanh tịnh trang nghiêm và đều đã thấy, rồi ngài phát thệ nguyện vô thượng thù thắng. Tâm ngài tịch tĩnh, không vướng mắc. Tất cả trong thế gian, không ai có thể sánh bằng. Trải qua năm kiếp, ngài tư duy và tuyển lựa các hạnh thanh tịnh để trang nghiêm cõi nước Phật.”

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Thọ mạng của Đức Phật ở cõi nước kia dài bao lâu?”

Đức Phật bảo:

“Thọ mạng của Đức Phật đó là 42 kiếp. Khi ấy, Tỳ-kheo Pháp Tạng tuyển chọn các hạnh thanh tịnh từ trong 210 ức cõi nước vi diệu của chư Phật. Khi đã tu hành như vậy xong, sau đó ngài đến Đạo Tràng của Phật, cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, nhiễu Phật ba vòng, đứng và chắp tay bạch rằng:

‘Bạch Thế Tôn! Con đã hoàn mãn tuyển tập các hạnh thanh tịnh để trang nghiêm Phật độ.’

Đức Phật đó bảo Tỳ-kheo Pháp Tạng:

‘Giờ ông hãy nói. Đây chính là lúc sẽ làm cho hết thảy đại chúng đều hoan hỷ. Chư Bồ-Tát khác sau khi nghe xong cũng tu hành Pháp này và sẽ viên mãn vô lượng đại nguyện.’

3. 48 Đại Nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng

Tỳ-kheo Pháp Tạng bạch Phật rằng:

‘Ngưỡng mong Đức Như Lai lắng nghe. Con sẽ lần lượt phát ra hết các thệ nguyện ấy:

[1] – Nguyện con khi thành Phật, nếu trong nước con có địa ngục, ngạ quỷ hoặc súc sanh, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[2] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, sau khi mạng chung mà còn đọa vào tam ác đạo, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[3] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, thân chẳng giống như màu vàng chân kim, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[4] –  Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, hình sắc chẳng đồng nhau, có người đẹp kẻ xấu, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[5] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Túc Mạng Thông để biết trăm ngàn ức na-do-tha số kiếp, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[6] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thiên Nhãn Thông để thấy trăm ngàn ức na-do-tha quốc độ của chư Phật, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[7] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thiên Nhĩ Thông để nghe trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật thuyết Pháp hay chẳng thể thọ trì, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[8] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Tha Tâm Thông để hiểu tâm niệm của trăm ngàn ức na-do-tha chúng sanh trong chư Phật quốc độ, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[9] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng được Thần Túc Thông để đến trăm ngàn ức na-do-tha quốc độ chư Phật trong một niệm khoảnh, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[10] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như khởi tưởng niệm chấp trước nơi thân tướng, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[11] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng trụ nơi chánh định cho đến lúc diệt độ, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[12] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hào quang có giới hạn, như chẳng thể chiếu đến trăm ngàn ức na-do-tha quốc độ của chư Phật, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[13] – Nguyện con khi thành Phật, nếu thọ mạng có giới hạn, như chẳng thọ đến trăm ngàn ức na-do-tha số kiếp, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[14] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng Thanh Văn trong nước con, như có thể tính đếm và dù cho tất cả chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều thành bậc Duyên Giác, rồi cùng cộng tính trong trăm ngàn kiếp mà biết được số ấy, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[15] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như thọ mạng có giới hạn, thì sẽ không thủ Chánh Giác–duy trừ do sức bổn nguyện mà dài ngắn tự tại.

[16] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, dẫu chỉ nghe tên của việc bất thiện, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[17] – Nguyện con khi thành Phật, nếu vô lượng chư phật ở mười phương thế giới, như chẳng ngợi khen danh hiệu con, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[18] – Nguyện con khi thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở mười phương với chí tâm tín thọ, muốn sanh về nước con và niệm đủ mười niệm mà chẳng được vãng sanh, thì sẽ không thủ Chánh Giác–duy trừ năm tội ngỗ nghịch hoặc phỉ báng Chánh Pháp.

[19] – Nguyện con khi thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở mười phương phát Bồ-đề tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, và muốn sanh về nước con. Khi người ấy mạng chung mà con chẳng hiện ra và cùng đại chúng vây quanh trước người đó, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[20] – Nguyện con khi thành Phật, nếu có chúng sanh nào ở mười phương nghe được danh hiệu con, tưởng nhớ cõi nước con, tu hành công đức, rồi chí tâm hồi hướng, và muốn sanh về nước con mà chẳng được toại ý, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[21] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như chẳng thành tựu viên mãn 32 tướng tốt của bậc đại nhân, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[22] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương Phật độ sanh đến nước con mà cứu cánh chẳng thành Nhất Sanh Bổ Xứ, thì sẽ không thủ Chánh Giác–duy trừ do sức bổn nguyện tự tại nên hóa hiện ở quả vị ấy. Bồ-Tát vì muốn độ thoát tất cả chúng sanh nên khoác lên áo giáp của đại nguyện và tích lũy thiện căn. Rồi du hành đến các quốc độ của chư Phật, tu Bồ-Tát hạnh, cúng dường mười phương chư Phật Như Lai, giáo hóa Hằng Hà sa vô lượng chúng sanh và an lập họ nơi Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ-Tát như vậy, hiện tiền tu theo Phổ Hiền hạnh nguyện và siêu vượt các quả địa thông thường.

[23] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng thể nương uy thần của Phật với thời gian chừng bằng một bữa ăn để cúng dường đến khắp vô lượng vô số ức na-do-tha quốc độ chư Phật, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[24] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng thể hiện ra đầy đủ các công đức để cúng dường trước chư Phật, hoặc chẳng được như ý, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[25] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng thể diễn nói Nhất Thiết Trí, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[26] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như chẳng được thân kim cang na-la-diên, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[27] – Nguyện con khi thành Phật, hết thảy vạn vật trong nước con đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng chói tráng lệ, hình sắc thù đặc, và vi diệu vô cùng đến chẳng thể suy lường. Nếu hàng trời người và các chúng sanh trong quốc độ con, cho đến dùng thiên nhãn mà có thể thấu rõ số lượng và danh xưng đó, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[28] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, bao gồm những vị ít công đức, mà chẳng thể thấy biết nơi Đạo Tràng có cây Bồ-đề với vô lượng màu sắc chói sáng và cao 400 vạn dặm, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[29] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, thọ trì đọc tụng và giảng thuyết Kinh Pháp mà chẳng được trí tuệ biện tài, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[30] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như trí tuệ biện tài có giới hạn, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[31] – Nguyện con khi thành Phật, quốc độ sẽ thanh tịnh, chiếu soi tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, như tự thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[32] – Nguyện con khi thành Phật, từ mặt đất đến hư không sẽ có cung điện lầu các, ao hồ dòng nước, và bông hoa cây cối. Hết thảy vạn vật trong cõi nước con đều do vô lượng tạp bảo và trăm ngàn loại hương hợp thành. Những vật trang nghiêm kỳ diệu ấy đều vượt hơn của chư thiên. Mùi hương đó xông khắp thập phương thế giới và khi chư Bồ-Tát ngửi vào thời sẽ đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[33] – Nguyện con khi thành Phật, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, khi được ánh hào quang của con chạm đến thân họ, thân tâm sẽ hiền hòa và an vui hơn cả chư thiên. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[34] – Nguyện con khi thành Phật, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, khi nghe danh hiệu con mà chẳng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ-Tát và các môn tổng trì thậm thâm, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[35] – Nguyện con khi thành Phật, nếu có người nữ nào trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, nghe được danh hiệu con, rồi hoan hỷ tín thọ, phát Bồ-đề tâm, nhàm chán nữ thân, và sau khi mạng chung mà còn thọ thân nữ, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[36] – Nguyện con khi thành Phật, nếu có chư Bồ-Tát nào trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, nghe được danh hiệu con, sau khi mạng chung, họ sẽ thường tu Phạm hạnh cho đến lúc thành Phật Đạo. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[37] – Nguyện con khi thành Phật, nếu có hàng trời người trong vô lượng vô số bất khả tư nghị mười phương chư Phật thế giới, nghe được danh hiệu con, cúi đầu đảnh lễ sát đất, rồi hoan hỷ tín thọ, và tu Bồ-Tát hạnh mà chẳng được chư thiên và người thế gian tôn kính, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[38] -Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, như muốn được y phục thì liền tự nhiên theo ý mà ứng hiện ra y phục vi diệu nơi thân, như Phật đã tán dương. Nếu cần phải may vá hoặc nhuộm tẩy hay giặt giũ, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[39] – Nguyện con khi thành Phật, nếu hàng trời người trong nước con, nơi sở thọ an vui như chẳng bằng vị Tỳ-kheo đã chứng Lậu Tận Thông, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[40] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con, như muốn thấy vô lượng mười phương Phật độ thanh tịnh trang nghiêm, thì liền ứng theo ý nguyện và đều hiện ra ở trong cây báu, như tự thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[41] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con và cho đến lúc thành Phật mà các căn bị khiếm khuyết hay thấp kém, hoặc chẳng trọn đủ, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[42] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, tất cả đều sẽ đắc Thanh Tịnh Giải Thoát Tam-muội. Khi trụ ở tam-muội này, thời chỉ trong một niệm khoảnh, có thể cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất chánh định. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[43] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, sau khi mạng chung thời sẽ sinh vào nhà tôn quý. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[44] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, vui mừng hớn hở, rồi tu Bồ-Tát hạnh, và đầy đủ các công đức. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[45] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, tất cả đều sẽ đắc Phổ Đẳng Tam-muội. Khi trụ ở tam-muội này cho đến lúc thành Phật sẽ luôn thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả Như Lai. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[46] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát trong nước con muốn nghe Pháp, thời sẽ tùy theo ý nguyện mà tự nhiên được nghe. Nếu chẳng được như thế, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[47] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, mà chẳng lập tức đắc quả vị bất thối chuyển, thì sẽ không thủ Chánh Giác.

[48] – Nguyện con khi thành Phật, nếu chư Bồ-Tát ở tha phương quốc độ nghe được danh hiệu con, mà chẳng lập tức đắc đệ nhất, đệ nhị, cho đến đệ tam Pháp nhẫn, hoặc ở trong Phật Pháp, như chẳng có thể lập tức đắc quả vị bất thối chuyển, thì sẽ không thủ Chánh Giác.’ ”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Lúc bấy giờ, khi Tỳ-kheo Pháp Tạng phát lời nguyện ấy xong, rồi dùng kệ tụng xướng rằng:

‘Thệ nguyện siêu thế gian

Tất thành Vô Thượng Đạo

Nếu nguyện chẳng viên tròn

Quyết không thành đẳng giác

Con trong vô lượng kiếp

Chẳng làm đại thí chủ

Rộng cứu kẻ khốn cùng

Quyết không thành đẳng giác

Nguyện con khi thành Phật

Danh vang khắp mười phương

Cứu cánh chẳng nghe qua

Quyết không thành đẳng giác

Lìa dục chánh niệm sâu

Tịnh tuệ tu Phạm hạnh

Quyết cầu Vô Thượng Đạo

Làm thầy của trời người

Thần lực hiển hào quang

Phổ chiếu vô sát độ

Tiêu trừ tham sân si

Giải cứu chúng ách khổ

Khai mở trí tuệ nhãn

Diệt trừ hôn manh ám

Đóng bít cửa ác thú

Mở toang thiện đạo môn

Công đức được viên tròn

Uy quang chiếu thập phương

Nhật nguyệt bị che khuất

Thiên quang ẩn chẳng hiện

Vì chúng khai Pháp tạng

Rộng thí công đức bảo

Thường ở giữa đại chúng

Thuyết Pháp sư tử hống

Cúng dường tất cả Phật

Đầy đủ mọi công đức

Trí tuệ nguyện viên thành

Làm bậc Tam Giới Tôn

Như Lai Trí Vô Ngại

Thông đạt châu biến khắp

Nguyện sức công đức con

Đồng như tối thắng Tôn

Nguyện này nếu sẽ thành

Đại thiên đều chấn động

Chư thiên khắp hư không

Tuôn rơi diệu bảo hoa'”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Sau khi Tỳ-kheo Pháp Tạng đã xướng lên bài kệ đó xong, lập tức khắp đại địa đều chấn động sáu cách, trời mưa diệu hoa rải lên thân ngài. Tự nhiên có âm nhạc và trên không trung có tiếng rằng:

‘Ngài nhất định sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.’

Sau đó, Tỳ-kheo Pháp Tạng tu hành và viên mãn đầy đủ các đại nguyện như thế. Ngài được thành tựu như thật bất hư, siêu xuất thế gian, và vui thích trong tịch diệt thậm thâm.”

4. Tỳ-kheo Pháp Tạng Tích Lũy Công Đức

“Này A-Nan! Tỳ-kheo Pháp Tạng ở giữa đại chúng–gồm thiên long bát bộ cùng Phạm vương, ma, thần–đã phát hoằng thệ nguyện trước Đức Phật đó. Khi phát nguyện ấy rồi, ngài nhất tâm quyết chí tu tạo cõi nước vi diệu trang nghiêm, Phật quốc quảng đại, thù thắng siêu việt, vĩnh cửu trường tồn, và chẳng suy hoại hay biến đổi.

Trải qua bất khả tư nghị triệu kiếp dài đăng đẳng, Pháp Tạng tu tập vô lượng đức hạnh của Bồ-Tát. Không sanh tham niệm, sân niệm, hại niệm. Không khởi tham tưởng, sân tưởng, hại tưởng. Không đắm trước sắc thanh hương vị xúc pháp. Thành tựu nhẫn nhục, không sợ các khổ, thiểu dục tri túc, vô tham sân si. Ngài thường trụ trong tam-muội tịch nhiên, trí tuệ vô ngại. Tâm ngài chẳng nịnh hót hay dối trá. Nét mặt hiền từ, lời nói hiền hòa, và từ tốn hỏi han.

Đạo tâm của Pháp Tạng kiên định và luôn dũng mãnh tinh tấn. Ngài nhất tâm cầu Pháp tuệ thanh tịnh để lợi ích quần sanh, cung kính Tam Bảo, và phụng sự sư trưởng. Với những hạnh trang nghiêm vẹn đủ, ngài khiến cho các chúng sanh thành tựu công đức. Ngài trụ trong Pháp tam-muội: không, vô tướng, vô nguyện. Quán pháp như hóa, vô tác vô khởi. Xa hẳn lời thô ác sẽ hại cả mình lẫn người, duy chỉ tu tập lời hay ý đẹp để mình và người đều lợi ích.

Pháp Tạng từ bỏ quốc gia vương vị, đoạn tuyệt tài sắc để hành Lục Độ Ba-la-mật và dạy bảo người khác cũng tu hành như vậy. Trải qua vô số kiếp tích lũy công đức, mọi nơi chốn ngài sinh ra, đều tự nhiên có vô lượng bảo tạng hiện ra như ý muốn. Pháp Tạng giáo hóa và an lập vô số chúng sanh trụ nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hoặc làm trưởng giả hay cư sĩ thuộc dòng dõi tôn quý. Hoặc làm quốc vương thuộc dòng sát-đế-lợi hay Chuyển Luân Thánh Vương. Hoặc làm Lục Dục Thiên Chủ hay cho đến Phạm Vương. Ngài luôn thực hành bốn sự cúng dường và cung kính tất cả chư Phật. Các công đức như vậy thật chẳng thể nào kể cho xuể.

Hơi thở của ngài thơm khiết như hoa sen xanh. Lỗ chân lông nơi thân toát ra mùi hương chiên đàn và mùi hương đó xông khắp vô lượng thế giới. Tướng mạo của Pháp Tạng đoan chánh, tướng hảo thù thắng vi diệu. Trên tay thường hiện ra vô tận bảo châu, y phục ẩm thực, trân diệu hương hoa, lọng che tràng phan, và đầy đủ các vật trang nghiêm. Những việc như vậy đều vượt hơn chư thiên và được tự tại trong tất cả pháp.”

5. Pháp Tạng Bồ-Tát Thành Phật

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ-Tát có phải đã thành Phật và nhập diệt rồi chăng? Hoặc ngài vẫn chưa thành Phật? Hay ngài hiện đang ở nơi nào đó?”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Pháp Tạng Bồ-Tát hiện đã thành Phật. Bây giờ Ngài đang ở phương tây, cách đây mười vạn ức cõi Phật. Thế giới của Đức Phật đó tên là An Lạc.”

Ngài A-Nan lại hỏi:

“Đức Phật đó thành Đạo đến nay đã được bao lâu?”

Đức Phật bảo:

“Ngài thành Phật đến nay đã trải qua mười kiếp.”

6. Tịnh Độ Trang Nghiêm

“Cõi nước của Đức Phật đó có thất bảo tự nhiên. Đất do vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ và mã não hợp thành. Quốc độ rộng lớn vô tận và chẳng thể biết được ranh giới. Ánh sáng của bảy báu hòa chung với nhau, lung linh chói rực. Quốc độ ấy thanh tịnh trang nghiêm và vi diệu tráng lệ, vượt hơn tất cả thế giới trong mười phương. Những châu bảo nơi đó là tối thắng trong chúng bảo và giống như các bảo châu ở tầng trời thứ sáu.

Lại nữa, cõi nước ấy không có núi Tu-di, Kim Cang, hay Thiết Vi, tất cả núi non đều không. Cũng chẳng có biển lớn, biển nhỏ, khe nước, kênh ngòi, giếng nước, hay thung lũng.

Do bởi uy thần của Đức Phật đó nên nếu muốn thấy thời sẽ được thấy. Cõi nước ấy cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hay các chướng nạn. Bốn mùa xuân hạ thu đông đều không có. Khí hậu luôn điều hòa mát mẻ, chẳng nóng hay lạnh.”

Lúc bấy giờ, ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Nếu cõi nước đó không có núi Tu-di, thế thì trời Tứ Thiên Vương và trời Đao-lợi sẽ nương trụ ở đâu?”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Tầng trời thứ ba Dạ-ma và cho đến trời Sắc Cứu Cánh thì nương trụ vào đâu?”

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Hành nghiệp và quả báo là bất khả tư nghị.”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Như hành nghiệp và quả báo là bất khả tư nghị, thì thế giới của chư Phật cũng không thể nghĩ bàn. Bởi do công đức thiện lực, các chúng sanh ở đó trụ nơi hạnh nghiệp nên mới được như vậy.”

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Con đối với Pháp này chẳng hoài nghi, nhưng vì muốn dứt trừ nghi ngờ đó cho chúng sanh đời vị lai nên mới hỏi nghĩa ấy.”

6. Ánh Sáng Vô Lượng

Phật bảo ngài A-Nan:

“Uy thần quang minh của Đức Phật Vô Lượng Thọ là tối tôn đệ nhất. Ánh hào quang của chư Phật khác không thể sánh bằng. Hoặc có Phật, hào quang chiếu soi 100 hay 1.000 chư Phật thế giới. Hoặc có Phật, hào quang chiếu soi bảy thước, hoặc một, hai, ba, bốn, hay năm do-tuần, và gấp bội lên như thế, hoặc cho đến chiếu một Phật sát. Do hào quang của Đức Phật Vô Lượng Thọ chiếu đến Hằng Hà sa Phật sát ở phương đông nam tây bắc, bốn hướng ở bốn góc, cùng phương trên và phương dưới cũng lại như vậy, cho nên Đức Phật Vô Lượng Thọ còn có hiệu là:

– Vô Lượng Quang Phật,

– Vô Biên Quang Phật,

– Vô Ngại Quang Phật,

– Vô Đối Quang Phật,

– Diễm Vương Quang Phật,

– Thanh Tịnh Quang Phật,

– Hoan Hỷ Quang Phật,

– Trí Tuệ Quang Phật,

– Bất Đoạn Quang Phật,

– Nan Tư Quang Phật,

– Vô Xưng Quang Phật,

– và Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.

Nếu có chúng sanh nào được hào quang của Ngài rọi đến thì tham sân si sẽ tiêu trừ, thân ý hòa nhã, vui tươi hớn hở, và thiện tâm tăng trưởng. Giả như đang chịu cực khổ ở tam ác đạo mà khi thấy ánh quang minh đó, thời đều được an lành và chẳng còn khổ não. Sau khi mạng chung, họ đều được giải thoát.

Hào quang của Đức Phật Vô Lượng Thọ chiếu sáng hiển hách đến mười phương quốc độ của chư Phật, không ai mà chẳng nghe biết. Như Ta hôm nay xưng tán quang minh của Ngài thì hết thảy chư Phật, chư Bồ-Tát, và Thanh Văn Duyên Giác cũng đều đồng tán thán như vậy.

Nếu có chúng sanh nào nghe đến uy thần công đức về hào quang của Ngài và ngày đêm nhất tâm xưng tụng chẳng ngớt, thì sẽ được sinh về cõi nước đó như ước nguyện. Chư Bồ-Tát và Thanh Văn đại chúng cũng sẽ đồng ngợi khen công đức của người ấy. Khi những chúng sanh này thành Phật Đạo, thì khắp mười phương chư Phật Bồ-Tát đều ngợi khen hào quang của họ như là Ta hôm nay vậy.”

Đức Phật bảo:

“Nếu Ta ngày đêm thuyết giảng về ánh sáng uy thần và sự thù thắng vi diệu của Đức Phật Vô Lượng Thọ trọn suốt một kiếp thì vẫn chẳng thể hết.”

7. Thọ Mạng Vô Lượng

Phật bảo ngài A-Nan:

“Lại nữa, Đức Phật Vô Lượng Thọ có thọ mạng trường cửu đến không thể tính kể. Ông có biết chăng? Giả như vô lượng chúng sanh trong mười phương thế giới đều được thân người và chứng quả Thanh Văn hay Duyên Giác, rồi cùng hội họp, thiền định nhất tâm, cùng nhau tính toán suốt trăm ngàn kiếp đến hết cả trí lực, thì thọ mạng số kiếp lâu dài của Đức Phật đó vẫn không thể cùng tận và chẳng thể biết được giới hạn. Cho đến thọ mạng dài ngắn của chư Bồ-Tát cùng hàng Thanh Văn và chúng trời người cũng đều như thế, không thể dùng toán số thí dụ mà có thể biết được.”

8. Thánh Chúng Vô Lượng

“Lại nữa, số lượng của chư Bồ-Tát cùng hàng Thanh Văn thật khó suy lường và chẳng thể nào kể cho xuể. Thần thông và trí tuệ của các ngài đều thông đạt, uy đức tự tại, và có thể để tất cả thế giới vào lòng bàn tay.”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Số lượng của hàng Thanh Văn ở trong hội đầu tiên của Đức Phật đó không thể kể xiết, còn chư Bồ-Tát thì cũng vậy. Giả như có trăm ngàn vạn ức vô lượng vô số người như Đại Mục-kiền-liên, đồng cộng tính trong a-tăng-kỳ na-do-tha số kiếp, cho mãi đến khi diệt độ, thì vẫn không thể biết được số ấy là bao nhiêu. Đây ví như biển lớn, rộng sâu thăm thẳm. Giả sử có người cắt sợi lông ra làm trăm phần, rồi dùng một phần đó chấm vào nước ở biển cả. Ý ông nghĩ sao? Giọt nước ở trên đầu sợi lông đó mà so với dung lượng của nước trong biển lớn kia thì bên nào nhiều hơn?”

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Dung lượng của nước trong biển lớn so với giọt nước kia thì không thể dùng ngôn từ hay toán số thí dụ mà có thể biết được.”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Số lượng của hàng Thanh Văn và chư Bồ-Tát ở trong hội đầu tiên thì cũng như số lượng tính được của Mục-kiền-liên suốt trăm ngàn vạn ức na-do-tha số kiếp. Số biết được như chừng bằng một giọt nước. Còn số chẳng biết thì ví như nước ở biển lớn.”

9. Cây Báu

“Lại nữa, cõi nước đó có cây bảy báu ở khắp mọi nơi, như là những cây làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, san hô, mã não, và xa cừ.

– Hoặc có cây làm bằng hai, ba, hay cho đến bảy báu mà hợp thành.

– Hoặc có cây làm bằng vàng với lá hoa quả là bạc.

– Hoặc có cây làm bằng bạc với lá hoa quả là vàng.

– Hoặc có cây làm bằng lưu ly với lá hoa quả là pha lê.

– Hoặc có cây làm bằng thủy tinh với lá hoa quả là lưu ly.

– Hoặc có cây làm bằng san hô với lá hoa quả là mã não.

– Hoặc có cây làm bằng mã não với lá hoa quả là lưu ly.

– Hoặc có cây làm bằng xa cừ với lá hoa quả là chúng bảo.

– Hoặc có cây báu lấy vàng tím làm rễ, bạc trắng làm thân, lưu ly làm cành, thủy tinh làm nhánh, san hô làm lá, mã não làm hoa, và xa cừ làm quả.

– Hoặc có cây báu lấy bạc trắng làm rễ, lưu ly làm thân, thủy tinh làm cành, san hô làm nhánh, mã não làm lá, xa cừ làm hoa, và vàng tím làm quả.

– Hoặc có cây báu lấy lưu ly làm rễ, thủy tinh làm thân, san hô làm cành, mã não làm nhánh, xa cừ làm lá, vàng tím làm hoa, và bạc trắng làm quả.

– Hoặc có cây báu lấy thủy tinh làm rễ, san hô làm thân, mã não làm cành, xa cừ làm nhánh, vàng tím làm lá, bạc trắng làm hoa, và lưu ly làm quả.

– Hoặc có cây báu lấy san hô làm rễ, mã não làm thân, xa cừ làm cành, vàng tím làm nhánh, bạc trắng làm lá, lưu ly làm hoa, và thủy tinh làm quả.

– Hoặc có cây báu lấy mã não làm rễ, xa cừ làm thân, vàng tím làm cành, bạc trắng làm nhánh, lưu ly làm lá, thủy tinh làm hoa, và san hô làm quả.

– Hoặc có cây báu lấy xa cừ làm rễ, vàng tím làm thân, bạc trắng làm cành, lưu ly làm nhánh, thủy tinh làm lá, san hô làm hoa, và mã não làm quả.

Những cây báu với từng hàng thẳng tắp, thân cành tương xứng, mỗi lá hướng nhau, và hoa quả đồng đều. Màu sắc của chúng rực rỡ và sáng chói đến không thể nhìn đặng. Khi làn gió mát thổi qua, các cây đó phát ra năm loại âm thanh. Âm điệu ấy vi diệu và hài hòa tự nhiên.”

10. Cây Bồ-đề ở Đạo Tràng

“Lại nữa, cây Bồ-đề ở Đạo Tràng của Đức Phật Vô Lượng Thọ cao 4 triệu dặm. Chu vi thân cây là 5.000 do-tuần. Cành lá trải rộng 200.000 dặm ở bốn hướng. Tất cả đều do các loại báu khác nhau tự nhiên hợp thành và được trang nghiêm với nguyệt quang ma-ni trì hải luân bảo, là vua trong chúng bảo. Trên cành cây treo lủng lẳng các xâu chuỗi anh lạc báu với trăm ngàn vạn loại màu sắc, biến hóa lạ thường, và phóng ra vô lượng ánh sáng chói rực, chiếu diệu vô cực. Có màn lưới báu vi diệu phủ trùm trên cây và tùy theo ý hiện ra tất cả những sự trang nghiêm. Khi làn gió thổi nhẹ qua, chúng phát ra Pháp âm vi diệu và vang khắp hết thảy cõi nước của chư Phật ở mười phương. Những ai nghe được thanh âm đó thời được Pháp nhẫn thâm sâu, trụ bất thối chuyển, và mãi đến khi thành Phật Đạo cũng chẳng gặp các khổ nạn. Mặc dù mắt thấy hình sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương thơm, lưỡi nếm mùi vị, thân xúc chạm ánh sáng, và tâm cảm nhận pháp trần, nhưng họ thảy đều được sáu căn thanh tịnh, đắc Pháp nhẫn thậm thâm, trụ bất thối chuyển, và mãi đến khi thành Phật Đạo cũng không có các hoạn nạn hay khổ não.

Này A-Nan! Nếu hàng trời người ở quốc độ kia khi thấy cây Bồ-đề đó thời sẽ được ba Pháp nhẫn:

– Âm Hưởng Nhẫn.

– Nhu Thuận Nhẫn.

– Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Đây đều do bởi uy thần lực, bổn nguyện lực, mãn túc nguyện, minh liễu nguyện, kiên cố nguyện, và cứu cánh nguyện của Đức Phật Vô Lượng Thọ.”

11. Cây Âm Nhạc

Phật bảo ngài A-Nan:

“Đế vương ở thế gian và Chuyển Luân Thánh Vương có trăm ngàn loại âm nhạc để tiêu khiển. Thế nhưng âm nhạc ở trên tầng trời thứ sáu còn hay hơn ngàn vạn ức lần. Tuy ở trên tầng trời thứ sáu có muôn loại âm nhạc nhưng cũng không bằng một phần ngàn ức của một âm thanh từ cây bảy báu nơi cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Những cây đó tự nhiên phát ra hàng vạn loại âm nhạc. Thanh âm ấy đều là Pháp âm, thanh tịnh du dương, vi diệu hòa nhã, là thanh âm tối vi đệ nhất trong tất cả mười phương thế giới.”

12. Cung Điện Lầu Các

“Lại có giảng đường, tinh xá, cung điện, và lầu các đều do thất bảo trang nghiêm tự nhiên hóa thành. Quấn quanh và trùm khắp trên đó là trân châu minh nguyệt và ma-ni bảo châu.”

13. Ao Tắm Báu

“Trong ngoài, tả hữu của những kiến trúc ấy có những ao tắm. Chiều dài, sâu và rộng của mỗi ao bằng nhau. Hoặc là 10, 20, hay 30 do-tuần, hoặc cho đến trăm ngàn do-tuần. Trong ao tràn đầy nước tám công đức, thanh tịnh thơm khiết, và mùi vị như cam lộ.

– Đáy ao vàng kim dùng cát bạc trắng để trải làm đất.

– Đáy ao bạc trắng dùng cát vàng kim để trải làm đất.

– Đáy ao thủy tinh dùng cát lưu ly để trải làm đất.

– Đáy ao lưu ly dùng cát thủy tinh để trải làm đất.

– Đáy ao san hô dùng cát hổ phách để trải làm đất.

– Đáy ao hổ phách dùng cát san hô để trải làm đất.

– Đáy ao xa cừ dùng cát mã não để trải làm đất.

– Đáy ao mã não dùng cát xa cừ để trải làm đất.

– Đáy ao ngọc trắng dùng cát vàng tím để trải làm đất.

– Đáy ao vàng tím dùng cát ngọc trắng để trải làm đất.

Hoặc có ao do hai báu, ba báu, hay cho đến bảy báu cộng hợp thành. Trên bờ của các ao đó có những cây chiên đàn. Hoa lá của chúng tỏa ra mùi hương xông thơm khắp nơi. Ở trên khắp mặt nước có các hoa trời, như là hoa sen sanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng và chúng phóng ra nhiều màu ánh sáng khác nhau.

Khi chư Bồ-Tát và hàng Thanh Văn đi vào trong ao báu:

– Như muốn nước tới bàn chân thì nước liền đến bàn chân.

– Như muốn nước tới đầu gối thì nước liền đến đầu gối.

– Như muốn nước tới eo lưng thì nước liền đến eo lưng.

– Như muốn nước tới ngang cổ thì nước liền đến ngang cổ.

– Như muốn tắm gội thân thể thì nước tự nhiên rưới vào thân họ.

– Như muốn trở lại như cũ thì nước liền trở lại như cũ.

Nhiệt độ lạnh nóng, điều hòa tùy ý. Nước đó làm cho tinh thần minh mẫn, thân thể tươi vui, và trừ đi cáu bẩn trong tâm. Nước ấy lắng trong thanh khiết, trong suốt như vô hình. Cát báu ở đáy ao ánh triệt chiếu sáng và dù nước sâu đến đâu cũng trông thấy được.

Có những đợt sóng nhỏ lăn tăn gợn lên và tan đi êm dịu, không nhanh cũng không chậm, và tự nhiên phát ra vô lượng diệu âm. Tùy người nghe mà ứng hiện như ý. Hoặc nghe âm thanh của Phật. Hoặc nghe âm thanh của Pháp. Hoặc nghe âm thanh của Tăng. Hoặc tiếng tịch tĩnh, tiếng không, tiếng vô ngã, tiếng đại từ bi, và tiếng Ba-la-mật. Hoặc âm thanh của Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, và Pháp Bất Cộng. Các tiếng thông tuệ, tiếng vô sở tác, tiếng bất khởi diệt, tiếng Vô Sanh Nhẫn, cho đến tiếng cam lộ quán đảnh. Các diệu Pháp âm như vậy đều làm người nghe hoan hỷ vô lượng và tùy thuận theo nghĩa của thanh tịnh, ly dục, tịch diệt, và chân thật. Tùy thuận Tam Bảo, lực, vô sở úy, và Pháp Bất Cộng. Tùy thuận Đạo thông tuệ sở hành của Bồ-Tát và Thanh Văn. Nơi ấy không có tam ác đạo và danh xưng của những khổ nạn, mà tự nhiên chỉ có thanh âm vui vẻ. Cho nên cõi nước đó gọi là An Lạc.”

14. Chư Thánh Chúng

“Này A-Nan! Phàm người vãng sanh về cõi nước của Đức Phật kia thời sẽ đầy đủ thanh tịnh sắc thân, chư diệu âm thanh, và thần thông công đức.

Nơi cung điện họ ở, y phục ẩm thực, chúng diệu hương hoa, và những vật dùng trang nghiêm đều tự nhiên hóa hiện như các vật dụng ở tầng trời thứ sáu. Khi muốn ăn, các bình bát bảy báu như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, hoặc minh nguyệt trân châu, sẽ tự nhiên hiện ở trước họ. Ứng theo tâm niệm, các bảo bát như thế liền hiện đến. Lại có ẩm thực trăm vị, tự nhiên đầy khắp trong đó. Tuy có thức ăn nhưng thật không có người thọ dụng. Mắt chỉ cần nhìn, mũi ngửi hương, và dùng ý quán sát thì tự nhiên no đủ. Thân tâm họ nhẹ nhàng và không tham đắm sắc vị. Khi dùng xong thì đều biến mất; lúc đến giờ thời tự nhiên sẽ hiện trở lại. Sự thanh tịnh bình yên và an vui vi diệu ở cõi nước của Đức Phật kia chỉ kế sau Đạo vô vi nơi Niết-bàn.

Chư Bồ-Tát cùng hàng Thanh Văn và hàng trời người ở đó có trí tuệ cao minh, thần thông tự tại. Hết thảy đồng giống nhau, hình sắc đều không chút dị biệt. Nhưng vì tùy thuận các phương khác, cho nên mới có tên trời người. Họ có tướng mạo đoan chánh, dung nhan vi diệu, thật siêu việt và hiếm có trong đời. Họ chẳng phải trời hay người, thân thể lớn vô cực và tự nhiên như hư không.”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Ví như người xin ăn nghèo khổ ở thế gian đứng bên cạnh đế vương, dung mạo hình dáng của người ăn mày có thể sánh với đế vương không?”

Ngài A-Nan bạch Phật rằng:

“Giả như người này đứng bên cạnh đế vương thì tướng mạo người đó gầy gò, xấu xí đến chẳng gì có thể ví dụ được, trăm ngàn vạn ức lần kém xa đế vương.

Vì sao thế? Bởi người xin ăn nghèo khổ này thấp kém cùng cực, mảnh áo chẳng đủ che thân, ăn không đủ no, cả mạng cũng khó giữ, đói rét khốn khổ, và mất hết luân lý làm người. Người đó đời trước không hề gieo trồng căn lành, chỉ lo tích chứa tiền tài, giàu có nhưng keo kiệt, và không chịu bố thí. Người ấy chỉ ham mọi thứ cho nhiều, tham cầu không biết chán, chẳng tin tu thiện, và phạm tội ác chồng chất như núi. Người như vậy sau khi mạng chung, tài bảo sẽ tiêu tan. Tiền của tích tụ làm cho khổ thân nhọc xác, lòng luôn bị lo âu, chẳng có chút ích lợi gì cho mình cả mà kết cuộc lại lọt hết vào tay người khác. Bởi không có phước để hộ, không có đức để che, cho nên lúc chết, họ phải đọa vào ác thú để thọ mãi thống khổ. Sau khi nghiệp tội đã hết thời mới được ra khỏi. Dẫu được sinh làm người nhưng sanh làm kẻ hạ tiện, ngu đần đến cực điểm.

Đế vương ở thế gian là nhân trung độc tôn. Đây đều là do đời trước tích tập phước đức, nhân từ bác ái, từ mẫn bố thí, tín nghĩa tu thiện, và không tranh hơn thua. Cho nên sau khi mạng chung, phước báo ứng hiện và được sanh lên thiện đạo. Hoặc sanh lên cõi trời để thọ hưởng phước lạc. Hoặc do bởi họ tích lũy thiện căn nên nay làm người và sinh vào dòng dõi đế vương. Họ tự nhiên sẽ được tôn quý, có tướng mạo đoan chánh và mọi người kính mến. Họ mặc những y phục tuyệt đẹp, ăn các món ngon vật lạ, và mọi việc đều tùy tâm như ý. Đây là bởi phước của đời trước nên mới được như thế.”

Phật bảo ngài A-Nan:

“Lời ông nói rất đúng. Tuy đế vương là hàng tôn quý trong loài người, nhưng so với Chuyển Luân Thánh Vương thì hình sắc đoan chánh đó thật xấu xí, như kẻ ăn mày kia đứng bên cạnh đế vương vậy. Uy tướng thù thắng vi diệu của Chuyển Luân Thánh Vương là thiên hạ đệ nhất, nhưng so với vua của trời Đao-lợi thì vạn ức lần xấu hơn. Nếu Thiên Đế so với vua trời ở đệ lục thiên, thì trăm ngàn ức lần thua xa. Nếu vua trời ở đệ lục thiên so với chư Bồ-Tát và hàng Thanh Văn ở quốc độ của Đức Phật Vô Lượng Thọ, thì dung nhan tươi sáng ấy kém xa cả trăm ngàn vạn ức lần, cho đến không thể tính kể số lần.

15. Quốc Độ Thù Thắng

Phật bảo ngài A-Nan:

“Ở cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ, như y phục ẩm thực, hương hoa anh lạc, lọng che tràng phan, âm thanh vi diệu, nhà cửa nơi ở, và cung điện lầu các, với hình sắc kích cỡ, cao thấp lớn nhỏ, làm bằng một báu, hai báu, hoặc cho đến vô lượng chúng bảo. Trời người ở đó tùy theo ý muốn mà các thứ ấy liền lập tức hiện đến.

Lại có chúng bảo diệu y trải khắp mặt đất và tất cả trời người dạo đi trên đó. Có vô lượng màn lưới báu trùm khắp cõi nước Phật ấy và chúng đều làm bằng vàng, trân châu, và trăm ngàn tạp bảo kỳ diệu hiếm quý dùng trang nghiêm. Treo ở bốn phía xung quanh là các chuông báu, sắc màu sáng chói lung linh, trang nghiêm mỹ lệ phi thường.

Có gió công đức tự nhiên thổi nhè nhẹ, không nhanh không chậm, chẳng nóng hay lạnh, ôn hòa mát mẻ. Gió ấy điều hòa dịu dàng, thổi lay động các màn lưới và hàng cây báu, phát ra vô lượng Pháp âm vi diệu và thoang thoảng tỏa ngát muôn loại hương công đức. Phàm ai ngửi qua thời những trần lao cáu bẩn cùng các tập khí sẽ tự nhiên chẳng dấy khởi. Khi làn gió chạm đến thân, thời họ đều được vui vẻ, ví như vị Tỳ-kheo đắc Diệt Tận Tam-muội.

Lại nữa, làn gió thổi mang theo những bông hoa và tùy theo thứ tự màu sắc của mỗi hoa mà rải cùng khắp Phật độ, không xen tạp. Hoa ấy mềm mại sáng loáng, hương thơm ngào ngạt. Khi bước trên đó, chân lún bốn tấc. Khi nhấc chân lên, hoa trở lại như cũ. Các bông hoa đã giẫm lên thì mặt đất liền hé ra và từ từ biến mất, thanh tịnh không vết tích. Tùy theo thời khắc mà có gió thổi và hoa rơi sáu lần mỗi ngày như vậy.

Lại nữa, có chúng bảo liên hoa châu mãn ở thế giới đó. Mỗi bảo hoa có trăm ngàn ức lá. Hoa ấy phóng ra vô lượng tia sáng với nhiều màu sắc. Màu xanh tỏa ánh sáng xanh, màu trắng tỏa ánh sáng trắng. Đen, vàng, đỏ, tím cũng lại như vậy. Sắc màu tỏa sáng, chói lọi rực rỡ, và sáng hơn mặt trời mặt trăng. Trong mỗi hoa phóng ra 36 trăm ngàn ức tia sáng. Trong mỗi tia sáng hiện ra 36 trăm ngàn ức Phật, thân màu vàng tím, tướng hảo thù đặc. Mỗi chư Phật lại phóng trăm ngàn hào quang và rộng thuyết vi diệu Pháp cho chúng sanh khắp mười phương. Mỗi chư Phật như thế đều an lập vô lượng chúng sanh nơi Chánh Đạo của Phật.

 

QUYỂN HẠ

1. Trụ Trong Chánh Định

Phật bảo ngài A-nan:

“Phàm chúng sinh vãng sanh về cõi nước kia đều trụ trong chánh định.

Vì sao thế? Bởi trong quốc độ của Đức Phật kia không có tà định cùng bất định tụ hội.”

2. Ba Phẩm Vãng Sanh

“Hằng sa chư Phật Như Lai trong mười phương đều đồng tán thán uy thần công đức bất khả tư nghị của Đức Phật Vô Lượng thọ. Nếu có những chúng sanh nào nghe được danh hiệu ấy và tín tâm hoan hỷ, dẫu chỉ đến một niệm chí tâm hồi hướng và nguyện sanh nước kia, thì lập tức được vãng sanh và trụ bất thối chuyển–duy trừ năm tội ngỗ nghịch hoặc phỉ báng Chánh Pháp.”

Phật bảo ngài A-nan:

“Trong mười phương thế giới, các hàng trời người chí tâm nguyện sinh về cõi nước kia sẽ ở một trong ba phẩm.

Ở thượng phẩm là những vị rời gia đình, xuất gia ly dục để trở thành Sa-môn. Họ phát Bồ-đề tâm và nhất tâm chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức và nguyện sanh nước kia. Khi những chúng sanh này mạng chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ và các thánh chúng hiện ra ở trước. Người ấy liền theo sau Đức Phật kia, rồi vãng sanh về cõi nước đó, liền tự nhiên hóa sanh ở trong hoa bảy báu, trụ bất thối chuyển và được trí tuệ dũng mãnh với thần thông tự tại.

Vì thế, A-nan! Trong đời hiện tại, nếu có chúng sanh nào muốn thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ, thì phải nên phát tâm Bồ-đề vô thượng, tu hành công đức, và nguyện sanh nước kia.”

Phật bảo ngài A-nan:

“Ở trung phẩm là hàng trời người trong mười phương thế giới, những ai chí tâm nguyện sanh về cõi nước kia. Tuy không thể hành tác Sa-môn để tu đại công đức, nhưng do phát vô thượng Bồ-đề tâm và nhất tâm chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ. Họ tu thiện hoặc ít hay nhiều, phụng trì trai giới, xây tháp tạc tượng, cúng dường Sa-môn thức ăn, thắp đèn, treo lọng lụa, rải hoa đốt hương, rồi đem công đức đó hồi hướng và nguyện sanh nước kia. Khi người ấy lâm chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ hóa hiện một hóa thân với quang minh tướng hảo đầy đủ như chân Phật và cùng các thánh chúng hiện ra ở trước. Người ấy liền theo sau hóa Phật, vãng sanh về nước đó và trụ bất thối chuyển. Công đức và trí tuệ kế sau những vị ở thượng phẩm.”

Phật bảo ngài A-nan:

“Ở hạ phẩm là hàng trời người trong mười phương thế giới, những ai chí tâm nguyện sanh về cõi nước kia. Giả sử không thể làm các công đức, thì phải nên phát vô thượng Bồ-đề tâm và nhất tâm nhiếp ý cho đến mười niệm, niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ, và nguyện sinh về nước đó. Nếu như họ nghe được Pháp thậm thâm, rồi hoan hỷ tín thọ, chẳng sanh lòng hoài nghi, thậm chí chỉ được một niệm với tâm chí thành niệm Đức Phật kia và nguyện sinh về cõi nước đó. Khi lâm chung, người ấy sẽ mộng thấy Đức Phật kia và cũng được vãng sanh. Công đức và trí tuệ kế sau những vị ở trung phẩm.”

3. Chư Phật Tán Thán và Bồ-tát Cung Kính

Phật bảo ngài A-nan:

“Uy thần của Đức Phật Vô Lượng Thọ là chí tôn vô cực. Bất khả tư nghị vô lượng vô biên mười phương thế giới, chẳng có chư Phật Như Lai nào là không tán thán Ngài. Ở phương đông có vô lượng vô số chư Bồ-tát từ Hằng Hà sa cõi nước của chư Phật, đều đồng đến cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ, cung kính cúng dường Ngài và chư Bồ-tát Thanh Văn đại chúng. Các ngài đến đó nghe và thọ trì Kinh Pháp. Rồi sau đó, đi tuyên dương Đạo Pháp và giáo hóa chúng sanh. Nam tây bắc phương, bốn hướng ở bốn góc, cùng phương trên và phương dưới cũng lại như vậy.”

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

“Chư Phật quốc phương đông

Số như cát sông Hằng

Bồ-tát cõi nước đó

Đến lễ Vô Lượng Thọ

Nam bắc tây bốn góc

Thượng hạ cũng như vậy

Bồ-tát cõi nước đó

Đến lễ Vô Lượng Thọ

Tất cả chư Bồ-tát

Mỗi vị đem diệu hoa

Bảo hương vô giá y

Cúng dường Vô Lượng Thọ

Nhạc trời hòa tấu khắp

Ngân vang hòa nhã âm

Tán thán tối thắng Tôn

Cúng dường Vô Lượng Thọ

Thần thông trí tuệ đạt

Du nhập thâm Pháp môn

Đầy đủ công đức tạng

Diệu trí vô đẳng luân

Tuệ nhật chiếu thế gian

Tiêu trừ sanh tử mây

Cung kính nhiễu ba vòng

Khể thủ vô thượng Tôn

Khi thấy nghiêm Tịnh Độ

Vi diệu khó nghĩ bàn

Rồi phát vô thượng tâm:

‘Nước con nguyện cũng thế’

Lúc ấy Vô Lượng Tôn

Hân hoan miệng mỉm cười

Phóng ra vô số quang

Biến chiếu thập phương cõi

Hồi quang nhiễu quanh thân

Ba vòng rồi vào đảnh

Hết thảy chúng trời người

Hớn hở đều mừng vui

Đại sĩ Quán Thế Âm

Chỉnh y khể thủ vấn:

‘Bạch Phật hà duyên tiếu?

Duy nguyện nói nghĩa ý’

Phạm âm như sấm rền

Tám âm diệu sướng vang:

‘Vì thọ Bồ-tát ký

Lắng nghe nay Ta nói

Chánh sĩ mười phương đến

Ta đều biết nguyện họ

Chí cầu nghiêm tịnh độ

Thọ ký sẽ thành Phật

Hiểu rõ tất cả pháp

Như mộng huyễn âm vang

Các nguyện sẽ viên mãn

Đều thành như nước Ta

Biết pháp như ảnh điện

Cứu cánh Bồ-tát Đạo

Đầy đủ các công đức

Thọ ký sẽ thành Phật

Thông đạt chư Pháp môn

Hết thảy không vô ngã

Chuyên cầu tịnh Phật độ

Đều thành như nước Ta’

Chư Phật bảo Bồ-tát:

‘Thân cận An Dưỡng Phật

Nghe Pháp vui hành trì

Chóng được nơi thanh tịnh

Lúc đến nghiêm Tịnh Độ

Lập tức đắc thần thông

Sẽ được Vô Lượng Tôn

Thọ ký thành đẳng giác

Do Phật bổn nguyện lực

Nghe tên muốn vãng sanh

Đều sẽ sanh nước kia

Tự tại bất thối chuyển’

Bồ-tát nào chí nguyện

Nguyện nước mình không khác

Rộng nhớ độ quần sanh

Danh vang khắp mười phương

Phụng sự ức Như Lai

Phi hóa biến sát độ

Cung kính vui mừng đi

Rồi về An Dưỡng Quốc

Nếu người không thiện căn

Chẳng thể nghe Kinh này

Chỉ người giới thanh tịnh

Mới nghe được Chánh Pháp

Chỉ ai từng thấy Phật

Mới tin nơi Pháp này

Khiêm kính nghe phụng hành

Hớn hở lòng vui mừng

Kiêu mạn lười biếng ngu

Khó mà tin Pháp ấy

Đời trước ai thấy Phật

Mới vui nghe giáo này

Thanh Văn và Bồ-tát

Chẳng thể rõ tâm Phật

Ví như kẻ mù lòa

Lại muốn chỉ dẫn người

Như Lai biển trí tuệ

Rộng sâu vô bờ đáy

Nhị Thừa chẳng thể lường

Duy Phật mới rõ thông

Giả sử tất cả người

Hết thảy đều đắc Đạo

Tịnh tuệ như bổn không

Ức kiếp nghĩ Phật trí

Tận lực tuyên thuyết giảng

Trọn đời cũng chẳng thấu

Phật tuệ vô biên tế

Trí tuệ thanh tịnh sâu

Sống lâu rất khó được

Gặp Phật càng khó hơn

Khó người có tín tuệ

Nếu nghe tinh tấn tu

Thấy nghe chẳng lãng quên

Kính Pháp được an vui

Thiện thân hữu của Ta

Vì thế nên phát tâm

Dù lửa thiêu thế giới

Cũng quyết đến nghe Pháp

Tất sẽ thành Phật Đạo

Rộng độ chúng quần sanh”

4. Chư Bồ-tát Tối Thắng

Phật bảo ngài A-nan:

“Chư Bồ-tát ở quốc độ kia đều cứu cánh sẽ thành Nhất Sanh Bổ Xứ. Duy trừ các vị do bổn nguyện vì chúng sanh nên phát hoằng thệ nguyện. Các ngài dùng công đức trang nghiêm nơi thân và muốn rộng độ hết thảy chúng sanh.

Này A-nan! Hào quang nơi thân của hàng Thanh Văn trong cõi nước kia chiếu soi một tầm. Quang minh của Bồ-tát chiếu đến 100 do-tuần. Tịnh Độ ấy có hai vị Bồ-tát tối tôn đệ nhất; uy thần quang minh phổ chiếu Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới.”

Ngài A-nan bạch Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Hai vị Bồ-tát kia danh hiệu là gì?”

Đức Phật bảo:

“Vị thứ nhất tên là Quán Thế Âm. Vị thứ nhì tên là Đại Thế Chí. Hai vị Bồ-tát đó đã tu Bồ-tát hạnh ở cõi Ta-bà này đây. Sau khi mạng chung, các ngài đã vãng sanh đến quốc độ của Đức Phật kia.

Này A-nan! Chúng sinh vãng sanh đến cõi nước kia đều cụ túc 32 tướng, thành tựu đầy đủ trí tuệ, thâm nhập các Pháp và rõ thông diệu lý, thần thông vô ngại, các căn sắc bén. Những ai với độn căn thì thành tựu hai Nhẫn đầu, còn bậc lợi căn thì được a-tăng-kỳ Vô Sanh Pháp Nhẫn.

Lại nữa, chư Bồ-tát kia cho đến khi thành Phật sẽ không bao giờ còn đọa vào chốn ác đạo. Thần thông của các ngài tự tại và luôn nhớ việc đời trước–duy trừ sinh trong đời ác năm trược ở phương khác nên thị hiện đồng như chúng sanh nơi đó, ví dụ như là ở cõi nước Ta đây.”

Phật bảo ngài A-nan:

“Chư Bồ-tát ở quốc độ kia nương uy thần của Phật, trong thời gian chừng bằng một bữa ăn, có thể đến thập phương vô lượng thế giới để cung kính chư Phật Thế Tôn. Tùy tâm sở niệm mà cúng dường hương hoa âm nhạc, lọng lụa tràng phan. Vô lượng vô số phẩm vật cúng dường đều ứng theo niệm liền tự nhiên hóa sanh. Các kỳ trân diệu bảo thù đặc ấy không có ở thế gian. Những vật đó sau khi cúng dường cho chư Phật, Bồ-tát và Thanh Văn đại chúng, rồi ở trong hư không hóa thành lọng hoa với sắc màu sáng rực, hương thơm xông khắp. Chu vi lọng hoa ấy mới đầu là 400 dặm và cứ như vậy nhân gấp đôi lên cho đến khi che phủ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Rồi mỗi lọng hoa tuần tự ẩn mất. Lúc ấy, tâm của các Bồ-tát đó đều hân hoan và ở trong hư không đồng tấu nhạc trời, dùng tiếng vi diệu ngâm ca và tán thán công đức của chư Phật. Rồi các ngài ở đó lắng nghe và thọ trì Kinh Pháp, tâm hoan hỷ vô lượng. Sau khi đã cúng dường Phật trước giờ thọ trai xong, họ nhẹ nhàng vụt hốt nhiên trở về bổn quốc.”

5. Tuyên Thuyết Diệu Pháp và Chư Thiên Cúng Dường

Phật bảo ngài A-nan:

“Khi Đức Phật Vô Lượng Thọ ban tuyên Pháp nhũ cho chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn, tất cả đại chúng đều tề tựu về thất bảo giảng đường. Ngài rộng tuyên Đạo giáo và diễn nói diệu Pháp. Khi đó không ai là chẳng hoan hỷ, vì tâm họ đã liễu giải được Đạo.

Ngay lúc ấy, có gió tự nhiên khởi lên ở bốn hướng và thổi xuyên qua hàng cây bảy báu, phát ra năm loại âm thanh và theo làn gió mưa xuống vô lượng diệu hoa rải khắp nơi. Các thứ cúng dường tự nhiên như vậy liên tục chẳng ngớt. Tất cả chư thiên đều đem theo trăm ngàn hương hoa cõi trời và muôn loại âm nhạc để cúng dường Đức Phật đó cùng chư Bồ-tát và Thanh Văn đại chúng. Họ rải hương hoa khắp nơi, khảy tấu các loại âm nhạc, và thứ lớp trước sau đến đi. Những sự vui vẻ an lạc lúc ấy thì không thể dùng ngôn từ diễn tả được.”

6. Uy Đức của Chư Bồ-tát

Phật bảo ngài A-nan:

“Chư Bồ-tát ở cõi nước Phật kia đều tùy thuận theo trí tuệ của mình mà thường thuyết giảng, tuyên dương Chánh Pháp và đều chẳng trái nghịch hay sai lầm. Đối với vạn vật ở quốc độ đó đều vô ngã sở tâm, vô nhiễm trước tâm. Đi đứng nằm ngồi đều không ràng buộc bởi tình cảm, tùy ý tự tại, chẳng thích hay ghét, không người không ta, chẳng tranh hơn thua.

Các ngài có tâm đại từ bi, tâm lợi ích chúng sanh, tâm nhu hòa dịu dàng, và tâm không sân hận. Tâm các ngài thanh tịnh lìa si, không có tâm chán ghét hay lười biếng. Lại có tâm bình đẳng, tâm thù thắng, tâm thâm sâu, tâm thiền định, tâm yêu mến Pháp, tâm thích Pháp lạc, và tâm hoan hỷ Pháp.

Các ngài diệt trừ mọi phiền não, tâm lìa xa ác đạo, và cứu cánh đạt tới tất cả nơi sở hành của Bồ-tát. Thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, trụ sâu trong thiền định, và đắc thần thông trí tuệ. Khéo tu tập Thất Bồ-đề Phần và tâm luôn hành theo Phật Pháp.

– Nhục nhãn thanh tịnh, phân biệt mọi sự.

– Thiên nhãn thông đạt, chẳng có giới hạn.

– Pháp nhãn quán sát, cứu cánh các đạo.

– Tuệ nhãn kiến chân, vượt qua bờ kia.

– Phật nhãn viên tròn, giác liễu Pháp tánh.

Với Trí Tuệ Vô Ngại, chư Bồ-tát vì người khác diễn nói Pháp. Quán sát hết thảy trong Tam Giới đều không và chẳng thật có. Thế nên chí cầu Phật Pháp và được đầy đủ các biện tài. Họ diệt trừ phiền não và hoạn nạn cho chúng sanh. Các ngài sinh ra từ nơi Chánh Giác của Như Lai và liễu giải Pháp như như. Khéo biết chỗ tịch diệt và âm thanh phương tiện, không yêu thích lời thế tục mà chỉ vui mến đàm luận Chánh Pháp. Tu các căn lành và hết mực tôn kính Phật Đạo. Biết tất cả pháp thảy đều tịch diệt. Diệt trừ tận gốc rễ của sanh tử phiền não. Khi nghe Pháp thậm thâm, tâm họ chẳng nghi chẳng sợ và luôn có thể tu hành đúng như Pháp. Lòng đại bi của các ngài vi diệu thâm sâu và có thể chở chúng sanh đến bờ cứu cánh của Nhất Thừa.

Chư Bồ-tát quyết đoạn trừ lưới nghi nên tuệ tâm liền đó xuất hiện. Ở trong giáo Pháp của chư Phật được viên dung vô ngại. Trí tuệ như biển lớn, tam-muội như sơn vương. Trí tuệ quang thanh tịnh và siêu vượt hơn nhật nguyệt. Họ thành tựu đầy đủ viên mãn các Pháp thanh tịnh. Các ngài:

– Ví như tuyết sơn vì chiếu soi các công đức đều bình bẳng và thanh tịnh.

– Ví như đại địa vì dơ sạch tốt xấu đều không có tâm phân biệt.

– Ví như nước trong vì tẩy trừ trần lao cấu nhiễm.

– Ví như hỏa vương vì thiêu đốt tất cả củi phiền não.

– Ví như gió lớn vì du hành thế giới không chướng ngại.

– Ví như hư không vì đối với mọi thứ đều không chấp trước.

– Ví như liên hoa vì tuy ở thế gian nhưng không bị nhiễm ô.

– Ví như Đại Thừa vì có thể chở quần manh ra khỏi sanh tử.

– Ví như mây dày vì có thể nổi Pháp sấm lớn để giác ngộ quần mê.

– Ví như mưa lớn vì tuôn mưa cam lộ để thấm nhuần chúng sanh.

– Ví như núi Kim Cang vì chúng ma và ngoại đạo chẳng thể lay chuyển.

– Ví như Phạm Thiên Vương vì ở trong các thiện Pháp là bậc tối thượng thủ.

– Ví như cây đa vì che trùm tất cả.

– Ví như hoa ưu-đàm vì hy hữu khó gặp.

– Ví như kim sí điểu vì uy dũng hàng phục ngoại đạo.

– Ví như bầy chim phiêu du vì không tích chứa điều gì.

– Ví như ngưu vương vì không ai thắng nổi.

– Ví như tượng vương vì hay khéo điều phục.

– Ví như sư tử vương vì chẳng sợ bất cứ gì.

– Ví như hư không bao la vì lòng đại từ đối với tất cả.

Chư Bồ-tát tồi diệt hẳn tánh tật đố hơn thua. Luôn vui thích cầu Pháp và lòng không bao giờ chán nản. Tâm thường muốn rộng tuyên thuyết Pháp mà không hề mỏi mệt. Các ngài đánh trống Pháp, dựng Pháp tràng, và chiếu sáng mặt trời trí tuệ để diệt trừ si ám. Siêng tu Lục Hòa Kính và thường hành Pháp thí. Tâm của Bồ-tát dũng mãnh tinh tấn và không thối chuyển, là đèn sáng của thế gian, là nơi phước điền tối thắng. Thường làm vị Đạo sư bình đẳng, lòng không yêu ghét. Các ngài chỉ vui mến Chánh Đạo, đối với mọi thứ đều chẳng yêu thích. Chư Bồ-tát nhổ trừ cây gai ái dục để an định quần sanh. Công đức của họ thù thắng và chẳng ai là không tôn kính. Các ngài khéo diệt trừ tham sân si và thần thông du hý tự tại.

Chư Bồ-tát có nhân lực, duyên lực, ý lực, nguyện lực, phương tiện lực, thường lực, thiện lực, định lực, tuệ lực, đa văn lực, bố thí lực, trì giới lực, nhẫn nhục lực, tinh tấn lực, thiền định lực, trí tuệ lực, chánh niệm lực, chỉ quán lực, tam minh lực, lục thông lực, như Pháp điều phục chúng sanh lực. Các lực như thế, thảy đều đầy đủ.

Chư Bồ-tát có sắc thân tướng hảo trang nghiêm, đầy đủ công đức biện tài, và chẳng ai có thể sánh kịp. Các ngài luôn cung kính cúng dường vô lượng chư Phật và thường được chư Phật đồng ngợi khen. Họ cứu cánh thành tựu các Ba-la-mật của Bồ-tát; tu Không, Vô Tướng, Vô Nguyện Tam-muội; nhập các môn tam-muội bất sanh bất diệt và lìa xa quả địa của hàng Thanh Văn cùng bậc Duyên Giác.

Này A-nan! Chư Bồ-tát kia thành tựu vô lượng công đức như vậy. Ta vì ông nên lược nói như thế. Nếu Ta rộng nói thì dù cả trăm ngàn vạn kiếp cũng không thể cùng tận.”

7. Khuyên Cầu Vãng Sanh

Phật bảo Di-lặc Bồ-tát và chúng trời người:

“Chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn ở cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ có công đức và trí tuệ chẳng sao kể cho xuể.

Lại nữa, quốc độ ấy thanh tịnh và an vui vi diệu. Tại sao chúng sanh không dốc sức làm lành và tưởng mến Đạo? Đạo là viên dung vô ngại, không có sự phân biệt cao thấp. Nếu có ai dũng mãnh tinh tấn, nỗ lực cầu Đạo thì nhất định sẽ siêu xuất thế gian và vãng sanh An Dưỡng Quốc. Năm đường ác (1) sẽ tự nhiên đóng bít và đoạn tuyệt hẳn. Tuy Đạo vô thượng dễ đến nhưng mấy ai muốn hành. Dẫu Tịnh Độ không gì ngăn nhưng mấy ai tới được. Vì sao người đời không buông bỏ thế sự, tinh tấn tu hành cầu Đạo để có thể đắc trường sanh bất diệt và thọ hưởng vô tận an vui.”

8. Năm Đường Ác

“Thế nhưng, người đời thì nông cạn và chỉ tranh giành những việc nhỏ nhen. Trong đời cực ác lắm khổ, họ cần cù tìm kế sinh nhai. Giàu sang nghèo hèn, nam nữ già trẻ, thảy đều toan nghĩ tiền tài. Dù có của hay không, họ cũng đều ưu tư giống nhau. Rồi những lo sợ sầu khổ ấy ngày thêm chồng chất. Họ bị tâm mê mờ sai khiến và chẳng lúc nào được thảnh thơi.

Người có ruộng lo ruộng. Kẻ có nhà lo nhà. Cho đến tiền tài nô tỳ, y phục ẩm thực, trâu ngựa hay súc vật thời thảy đều lo âu. Ngày qua ngày thêm lo nghĩ và luôn sống trong sự sợ hãi sầu muộn.

Thình lình như bị nước cuốn trôi, lửa thiêu cháy rụi, hoặc bị đạo tặc, oan gia trái chủ cướp đoạt. Mọi thứ đều tiêu tan mất sạch, lo lắng khôn nguôi. Những phẫn uất kết tập trong lòng càng thêm buồn bã. Tâm ý họ kiên cố và mãi bám víu vào những đồ vật mà chẳng chịu rời xa. Thế rồi cái chết đến và thân này mất đi, mọi thứ đều phải bỏ lại và chẳng mang theo được gì.

Người giàu sang tôn quý cũng có hoạn nạn như nhau và cũng làm cho họ muôn phần lo sợ. Rồi dẫn tới nảy sinh những chứng bệnh nóng lạnh và phải chịu khổ sở. Kẻ bần cùng hạ tiện thì luôn bị thiếu hụt. Kẻ không có ruộng thì lo nghĩ muốn ruộng. Kẻ không có nhà thì lo nghĩ muốn nhà. Kẻ không có tiền tài nô tỳ, y phục ẩm thực, trâu ngựa hay súc vật thì cũng lo nghĩ muốn có. Hoặc có cái này nhưng lại thiếu cái kia. Hoặc có những thứ kia nhưng lại hụt các thứ khác. Họ toan nghĩ muốn được tất cả. Nhưng một mai có đủ thì liền hư hoại. Vì thế mà khổ đau và lại tiếp tục mong cầu, nhưng chẳng thể nào đạt được. Họ toan tính nhưng chỉ là vô ích và chỉ làm khổ nhọc thân tâm, đứng ngồi không yên, lo nghĩ liên miên. Rồi dần dần sinh ra các chứng bệnh nóng lạnh và phải chịu đau đớn khổ sở đến phải mất mạng hoặc bị chết yểu.

Vì chẳng chịu làm lành hay tu Đạo lập đức nên lúc mạng chung, họ phải đơn độc sanh đến cõi giới thấp hơn. Đường thiện nẻo ác, họ đều chẳng biết.

Người đời thế gian–cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, thân bằng quyến thuộc–phải nên hòa thuận kính mến, chớ đừng ganh ghét đố kỵ. Phải nên giúp đỡ lẫn nhau, chớ đừng tham lam bỏn xẻn. Phải nên ăn nói hòa nhã, chớ đừng thô cộc cay cú.

Phàm ai có tâm tranh, thì hiện đời tánh nóng giận đó sẽ bộc phát ra sự thù hận và lòng ganh ghét. Rồi đời sau sẽ chuyển thành đại oán thù. Tại sao thế? Mặc dầu có những sự tương tàn trên thế gian, tuy không lập tức trở thành nỗi bi thương tàn khốc, nhưng độc tánh của phẫn nộ sẽ kết thành phẫn uất và lưu lại trong thức thứ tám. Đời này sang đời khác sẽ chẳng thể rời xa. Lúc sinh ra thì luôn đối nghịch và hỗ tương báo thù.

Ở thế gian, con người chìm đắm trong ái dục. Tự sanh tự diệt, tự đến tự đi. Lặn hụp trong sanh tử, khổ vui tự thọ và không ai có thể thay thế. Làm thiện được phước lành, làm ác gặp tai ương. Nghiệp quả đời trước luôn sẵn chực chờ và chẳng thể thấy biết. Hoặc giả là sẽ tự mình đọa vào hố sâu thẳm. Nghiệp lành nghiệp dữ, đạo lộ bất đồng, đường ai nẻo nấy, mờ mờ mịt mịt, cách xa muôn trùng, và thật khó khăn muôn vàn để hội ngộ gặp nhau. Vì sao người đời không buông bỏ thế sự và nhân lúc còn khỏe mạnh mà nỗ lực tu thiện? Như quả có thể tinh tấn và nguyện cứu nhân độ thế, thời sẽ được trường sanh bất tử. Vì sao người đời không cầu Đạo? Hà tất phải rong đuổi những dục lạc mông lung?

Thế nhưng, người đời không tin làm thiện sẽ được lành, tu Đạo sẽ đắc Đạo, chẳng tin sanh tử luân hồi, bố thí được phước. Tất cả các việc lành dữ đều không tin và còn cho rằng thảy đều chẳng có thật. Họ bám vào cái thấy lệch lạc và hờ hững ngóng trông. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, cha truyền con nối, cùng nhau truyền dạy điều sai lầm. Từ đời tổ tiên cha ông đã không làm việc thiện và chẳng biết đạo đức là gì. Họ bị lòng si mê che lấp, sanh tử thiện ác chẳng thể tự thấy, và không có ai mách bảo giùm. Bất kể là việc kiết hung hay họa phước, họ đều tranh đua làm mà chẳng một ai thấy có điều chi kỳ quái cả.

Sống chết là sự tiếp nối tương tục của lẽ đạo thường tình. Hoặc cha khóc mất con; hoặc con khóc mất cha. Huynh đệ phu thê, ngậm ngùi khóc than. Bởi là định luật của vô thường nên cái chết xảy đến bất kỳ. Mọi thứ đều lìa tan và chẳng gì tồn tại mãi. Mặc dù đã có thiện hữu dạy bảo nhưng mấy ai thật tin hiểu. Thế nên cứ lưu chuyển không ngừng trong vòng sanh tử. Người si độn như thế thì chẳng thể tin Kinh Pháp. Tâm chẳng lo nghĩ xa mà chỉ vội chạy theo ý muốn. Họ ngu si mê muội trong ái dục nên chẳng thông đạt đạo đức. Mê muội sân hận cùng tham lam tài sắc. Bởi không tương ứng với Đạo nên phải thọ khổ ở ác đạo và lẩn quẩn trong sanh tử vô cùng tận. Thật quả đáng thương thay!

Hoặc giả như trong gia đình mất đi người cha hay đứa con, anh chị em, hoặc vợ hay chồng, người cốt nhục bùi ngùi thương xót, nhớ thương quyến luyến, và kết thành nỗi nhớ nhung. Năm tháng trôi qua, ngày thêm đau nhói, cõi lòng siết chặt đến chẳng thể nào giải tỏa. Dẫu có người dạy bảo Đạo lý cho nhưng tâm họ không thể khai mở, bởi cõi lòng vẫn còn nghĩ ngợi đến ái ân và chẳng thể thoát ly ái tình lục dục. Hôn ám mờ mịt cùng ngu si mê muội che khuất, họ không thể tư duy cùng hạ quyết tâm đoạn trừ thế sự và chuyên tâm tu Đạo. Thoáng chốc thì họ mạng chung và chẳng thể đắc Đạo.

Do bởi mê muội, họ si ái tham dục. Kẻ si mê thì nhiều mà người tỉnh ngộ có mấy ai. Trong thế giới mông lung, không gì có thể cậy trông. Người trên kẻ dưới, sang hèn quý tiện, lăng xăng bận rộn. Ai nấy đều ôm lòng sát hại, ác khí mịt mù, đầy rẫy những sự trái nghịch trời đất, và chẳng thuận tình người. Thọ mạng lẽ ra chưa tận, nhưng do phóng túng và làm theo điều ác, cho nên khi nghiệp tội cao ngất thì bỗng dưng chết mất. Rồi phải sa vào ác đạo, đời đời chịu khổ và lưu chuyển không ngừng đến ngàn ức số kiếp mà chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Khổ không thể tả xiết, quả đáng thương xót thay!”

9. Lời Răn Dạy của Phật

Phật bảo Di-lặc Bồ-tát và chúng trời người:

“Ta nay thuyết giảng về những việc của thế gian cho các ông rõ. Những ai như thế thì chẳng thể đắc Đạo. Đại chúng phải tư duy quán kỹ, hãy xa lìa các việc ác và siêng làm những việc lành. Ái dục vinh hoa vốn chẳng thường còn. Chúng rồi sẽ tan biến và không thể mang lại hạnh phúc. Những ai gặp Phật tại thế thời phải nên tinh tấn. Những ai có chí nguyện muốn sanh về nước An Lạc thời sẽ được trí tuệ sáng suốt cùng công đức thù thắng. Đại chúng chớ buông xuôi theo lòng dục vọng mà xa rời Kinh giới và tụt lại đằng sau người khác. Nếu có nghi vấn gì về Kinh này thì có thể hỏi Như Lai và Ta sẽ thuyết giảng cho các ông.

Di-lặc Bồ-tát quỳ hai gối bạch rằng:

“Uy thần của Phật tôn nghiêm, lời nói chân thiện. Khi con nghe qua lời Phật dạy, tâm quán sát tư duy và người đời thật đúng như lời Phật đã nói. Bởi lòng từ mẫn, nay Đức Phật hiển thị Đại Đạo, khiến cho tai mắt của chúng con mở sáng và được độ thoát. Khi nghe lời Phật dạy, không ai là chẳng hoan hỷ. Hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ thảy đều nhờ ân đức của Phật mà thoát khỏi ưu sầu khổ não. Lời răn dạy của Phật rất thâm sâu và hiền từ. Trí tuệ chiếu soi hết thảy những việc thuở quá khứ, hiện tại và vị lai trong mười phương mà không gì là chẳng rõ thông. Sở dĩ hôm nay chúng con được nhờ ơn cứu độ, đây đều là do nhân khiêm nhường và nhẫn chịu gian khổ cầu Đạo của Phật thuở trước. Ân đức phủ khắp và phước lành bao la. Ánh quang minh chiếu triệt, thông đạt rõ pháp không, và khai nhập cõi Niết-bàn. Lời dạy tôn nghiêm, từ bi giáo hóa cảm động vang khắp thập phương. Phật là Pháp Vương, là bậc tôn quý nhất trong hàng thánh, rộng làm thầy của tất cả trời người. Như Lai tùy theo sở nguyện của họ mà đều làm cho đắc Đạo. Nay chúng con gặp Phật, lại nghe về Đức Phật Vô Lượng Thọ, tâm được mở sáng và không ai là chẳng vui mừng.”

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Đúng như lời ông nói. Nếu có ai kính lễ chư Phật thì thật là một việc thiện lớn lao. Bởi vì rất lâu mới có một vị Phật xuất thế. Ta nay ở thế giới này làm Phật, diễn nói Kinh Pháp, quảng tuyên Đạo giáo, đoạn các lưới nghi, nhổ gốc rễ ái dục, lấp bít căn nguyên của chúng ác, và du hành trong Tam Giới vô chướng ngại. Ta dùng Nhất Thiết Trí để chỉ bày trọng yếu của Đạo và giảng giải rành rẽ. Khai thị năm đường ác, hóa độ người chưa hóa độ để giúp họ bước lên chánh Đạo và từ sanh tử thẳng đến Niết-bàn.

Này Di-lặc! Nên biết rằng, ông đã tu Bồ-tát hạnh từ vô số kiếp đến nay. Từ xa xưa, ông đã phát tâm muốn độ chúng sanh. Những chúng sanh được giáo hóa khi ông thành Đạo cho đến lúc nhập Niết-bàn thì nhiều chẳng kể xiết. Ông cùng hàng trời người trong mười phương và hết thảy tứ chúng đệ tử đã lưu chuyển trong năm đường từ kiếp vô thỉ đến nay. Những sự lo sợ cùng khổ đau thì không thể nào nói cho xuể. Và mãi đến đời hiện tại, ông vẫn chưa đoạn dứt sanh tử. Tuy nhiên, ông đã gặp Phật và nghe Pháp thọ trì. Ông lại được nghe về Đức Phật Vô Lượng Thọ. Thật là vui lành thay. Ta sẽ hỗ trợ điều ông vui làm.

Nay đại chúng cũng nên nhàm chán thống khổ của sanh lão bệnh tử và ác đạo bất tịnh, bởi chúng không thể mang lại an vui. Hãy nên quyết tâm hành các hạnh chân chánh, làm mọi điều lành, tu tâm dưỡng tánh, tẩy trừ lòng cấu dơ, ngôn hạnh trung tín, và trong ngoài tương ứng. Hãy tự độ và độ tha, tinh tấn tu hành, và tích lũy thiện căn. Tuy đời này chịu cực khổ tu hành, nhưng thời gian sẽ thoáng trôi qua. Đời sau sẽ sinh về cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ và thọ hưởng an vui vô cùng. Lại luôn khế hợp với đạo đức và tuyệt trừ gốc rễ sanh tử, không có tham sân si và các khổ nạn. Lúc ấy, như muốn thọ mạng dài một kiếp, trăm kiếp, hay ngàn ức vạn kiếp, thời thảy đều được tùy ý tự tại và vô vi tự nhiên chỉ kế sau cảnh giới của Niết-bàn.

Các ông mỗi người nên tinh tấn để đạt thành tâm nguyện của mình. Giả như có lòng hoài nghi, hối tiếc, hay phạm lỗi lầm thì sẽ sanh ở nơi biên địa của cõi nước kia, phải ở trong cung điện bảy báu và thọ những khổ ách đến 500 năm.”

Ngài Di-lặc bạch rằng:

“Chúng con xin lãnh thọ lời dạy bảo ân trọng của Phật, sẽ tinh tấn tu học, như giáo phụng hành, và chẳng dám có lòng hoài nghi.”

10. Năm Việc Ác và Năm Điều Thiện

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Nếu các ông có thể ở trong đời này với tâm ngay ý thẳng, không làm các điều ác thì sẽ được công đức tối thắng và khắp mười phương thế giới chẳng một ai sánh bằng.

Vì sao thế? Bởi trời người trong các quốc độ của chư Phật đều tự nhiên làm việc thiện, chẳng ai làm điều ác, và giáo hóa dễ dàng. Ta nay ở tại thế giới này làm Phật–trong đời của năm việc xấu ác, năm loại thống khổ, và năm sự thiêu đốt–để giáo hóa quần sanh. Đây thật khổ nhọc vô vàn. Ta khiến họ rời năm việc xấu ác, xa năm loại thống khổ, và lìa năm sự thiêu đốt. Hóa độ và điều phục tâm ý họ, khiến cho họ có thể thọ trì năm điều thiện lớn để được phước đức, trường thọ và chứng Đạo Niết-bàn.”

Đức Phật bảo:

“Năm việc xấu ác, năm loại thống khổ, và năm sự thiêu đốt là những gì? Làm thế nào để có thể thọ trì năm điều thiện lớn để được phước đức, trường thọ và chứng Niết-bàn?”

11. Việc Ác Thứ Nhất và Điều Thiện Thứ Nhất

“Việc đại ác thứ nhất là thế này. Hàng trời người và cho đến các loài sâu bọ, hễ làm ác thì sẽ không ngoại trừ ai. Kẻ mạnh hà hiếp kẻ yếu. Hỗ tương tàn sát, giết hại, và ăn nuốt lẫn nhau. Chúng chẳng biết tu thiện mà chỉ ác nghịch vô đạo. Rồi tự nhiên phải thọ lãnh hình phạt và chuốc lấy tai họa về sau. Các điều ác sẽ lưu vào tạng thức và chẳng tha miễn một ai. Cho nên trên đời mới có kẻ bần cùng hạ tiện, xin ăn côi cút, mù điếc câm ngọng, ngu si xấu xí, cho đến có những kẻ tàn tật, què liệt điên cuồng, hoặc mấy kẻ bất bình thường. Nhưng lại cũng có những người tôn quý giàu sang và thông minh tài ba. Đó đều là do bởi đời trước, họ nhân từ hiếu thảo và tích đức tu thiện.

Trên thế gian có quốc pháp và ngục tù, những kẻ ác chẳng kiêng sợ nên mặc nhiên tạo tội ác. Rồi sau đó, họ bị pháp luật trừng trị và cầu mong ra khỏi thì cũng khó mà được. Ở thế gian phải thọ lấy hình phạt ngay trong đời hiện tại. Sau khi chết thì càng kịch liệt hơn. Họ đọa vào chốn tối tăm và chuyển sanh với một thân thể để thọ khổ. Đây ví như luật pháp trên nhân thế, họ bị cực hình hết sức thống khổ.

Do vậy, chốn tam đồ tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Tội nhân cứ y theo nghiệp mà chuyển đổi thân hình cùng cõi giới thọ sanh. Thọ mạng hoặc dài hay ngắn, thần hồn sẽ tự nhiên rảo tới. Hoặc họ sẽ chuyển sanh đồng thời với những kẻ oan gia để cùng nhau báo thù. Trừ phi nghiệp tội đã tận, bằng không cứ như thế cho đến mãi chẳng ngừng và không hề được thoát miễn. Họ lưu chuyển trong đó đến chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Trong trời đất tự nhiên có những việc như vậy. Báo ứng của thiện ác tuy có thể sẽ không lập tức đến cùng một lúc, nhưng hoặc sớm hay muộn cũng sẽ hội đến. Đây là việc đại ác thứ nhất, loại thống khổ thứ nhất, và sự thiêu đốt thứ nhất.

Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ đắc giải thoát, có được phước đức, hoặc thăng lên cõi trời, hay chứng Đạo Niết-bàn. Đây là điều thiện lớn thứ nhất.”

12. Việc Ác Thứ Nhì và Điều Thiện Thứ Nhì

Đức Phật bảo:

“Việc đại ác thứ nhì là thế này. Người ở thế gian–cha mẹ anh em, vợ chồng con cái–nếu có ai bất nhân bất nghĩa, không tuân theo quốc pháp, hoang dâm kiêu ngạo, phóng túng vô độ, hoặc dối gạt người khác. Lời nói và ý nghĩ trái nghịch–không trung thực, hoặc nịnh hót bất tín, miệng lưỡi a dua, phỉ báng thánh hiền, ganh ghét người thiện, hay gây hại kẻ khác.

Hoặc có hôn quân không sáng suốt, khiến cho bầy thần lộng hành, hãm hại trung lương và chẳng theo thiên lý. Gian thần lấn quyền quân thượng. Con ức hiếp cha. Anh em vợ chồng, bạn bè thân thuộc, lừa dối lẫn nhau. Do bởi tham sân si nên muốn tự lợi và tham lam không chán. Người trên kẻ dưới, lòng ai nấy bất chánh như nhau. Họ bất chấp hậu quả và kết cuộc là mạng mất nhà tan. Gia quyến nội ngoại cũng mắc lấy ương lụy và làm cho toàn tộc phải bị diệt vong.

Hoặc có lúc họ cùng làm việc với thân quyến, bạn bè, dân chúng trong xóm làng, người ở thành thị, kẻ ngu đần, hay người man rợ. Họ cùng nhau lợi dụng và hãm hại lẫn nhau. Thế rồi sự phẫn nộ kết thành oán thù. Người giàu sang thì bủn xỉn và chẳng chịu bố thí. Họ tham luyến tài bảo và chỉ làm khổ nhọc thân tâm. Cứ như vậy cho đến cuối đời, họ không có nơi nào cậy trông. Tự mình đến rồi tự mình ra đi và chẳng ai theo cùng. Lành dữ hay họa phước, chúng bám theo đến đời sau. Hoặc họ sẽ ở nơi vui sướng hay sẽ rơi vào chốn khổ đau. Lúc đó có hối hận thì cũng đã quá muộn.

Tâm trí của người thế tục ngu muội và nông cạn. Khi thấy việc lành, chẳng những không quý mến mà còn sanh lòng chê ghét. Họ chỉ muốn làm điều ác và những việc phi pháp. Lòng thường nhớ tưởng đến trộm cắp và hy vọng chiếm lợi người khác. Sau khi đã dùng hết đồ trộm về, họ lại tiếp tục tìm cách. Tâm họ bất chánh! Mặc dầu sợ bị người khác biết nhưng vẫn thản nhiên đi làm mà không hề suy nghĩ. Sau khi bị bắt mới ăn năn hối tiếc.

Trên thế gian có quốc pháp và lao tù. Tội nhân tùy theo tội đã phạm mà thọ lấy hình phạt. Những kẻ này ở đời trước đã không tin đạo đức và cũng chẳng tu căn lành. Bây giờ lại làm thêm điều xấu ác. Những việc họ làm đều có thiên thần ghi chép. Sau khi chết, thần thức sẽ đọa vào ác đạo.

Do vậy, chốn tam đồ tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển trong đó đến chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ nhì, loại thống khổ thứ nhì, và sự thiêu đốt thứ nhì.

Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ đắc giải thoát, có được phước đức, hoặc thăng lên cõi trời, hay chứng Đạo Niết-bàn. Đây là điều thiện lớn thứ nhì.”

13. Việc Ác Thứ Ba và Điều Thiện Thứ Ba

Đức Phật bảo:

“Việc đại ác thứ ba là thế này. Người ở thế gian có thọ mạng ngắn ngủi. Họ cậy nương lẫn nhau và chung sống trong trời đất. Trên cùng có bậc hiền minh, trưởng giả, tôn quý, và hàng phú hào. Ở dưới có hạng bần cùng, thấp hèn, đê tiện, và người ngu dốt. Ở giữa có kẻ bất thiện, thường nghĩ tưởng đến tà ác, và chỉ nhớ đến việc dâm dật. Tâm rối bời bởi ái dục chi phối, đứng ngồi không yên. Lòng tham lam bỏn xẻn và chỉ muốn những chuyện xa vời. Mắt liếc nhìn những thứ sắc dục và ý tà vậy liền hiện ra bên ngoài. Họ chán ghét vợ nhà và ra ngoài ngoại tình. Hao tổn gia tài và làm những điều phi pháp. Giao kết tụ hội và gây ra những việc đâm chém, đánh cướp sát hại, và cưỡng đoạt vô đạo. Lòng ác của họ mong khởi đến tài vật của người, không chịu tự mình đi làm việc, và đồ có được là do trộm cắp lấy về. Khi việc đã xong, họ sợ bị pháp luật trừng phạt nên mới đưa cho vợ con.

Tâm họ phóng túng đắc ý và luôn ham muốn khoái lạc. Hoặc ở trong thân thuộc, chẳng nể người trên kẻ dưới, và tạo ra những việc tai họa khổ đau cho gia đình và họ hàng. Họ cũng chẳng kiêng sợ những điều cấm chế của luật pháp. Các tội ác như vậy, người quỷ đều biết, nhật nguyệt soi thấy, và thần minh nhớ biết.

Do vậy, chốn tam đồ tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển trong đó đến chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ ba, loại thống khổ thứ ba, và sự thiêu đốt thứ ba.

Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ đắc giải thoát, có được phước đức, hoặc thăng lên cõi trời, hay chứng Đạo Niết-bàn. Đây là điều thiện lớn thứ ba.”

14. Việc Ác Thứ Tư và Điều Thiện Thứ Tư

Đức Phật bảo:

“Việc đại ác thứ tư là thế này. Người ở thế gian chẳng nhớ tu thiện. Trái lại, họ xúi giục với nhau cùng chung làm việc ác. Nào là nói đâm thọc, nói lời ác, nói dối, và nói thêu dệt. Họ gièm pha tranh đấu, ganh ghét người hiền lương, nhục mạ thánh hiền rồi khoái chí ở đằng sau nhe cười. Lại bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, bất tín với bạn bè và lòng chẳng thành thật. Họ tự đại, tự cho là mình tôn quý và có đạo đức. Họ cậy thế lộng quyền và ức hiếp người khác. Những kẻ ấy ngang nhiên làm điều ác và chẳng biết xấu hổ. Thế nên khó mà được người kính mến. Họ chẳng sợ trời sợ đất, thần minh hay nhật nguyệt. Bởi chẳng chịu làm việc lành, hạng người như thế rất khó giáo hóa. Lại lếu láo tự cao và mọi thứ đều cho là thường còn. Cho nên họ chẳng kiêng sợ và luôn kiêu ngạo khinh mạn. Các tội ác như vậy, thiên thần đều ghi rõ.

Những kẻ ấy cậy nhờ vào phước đức đã tạo ở đời trước và dùng chút căn lành nhỏ nhoi đó để trợ giúp và bảo hộ. Song bởi đời này làm ác và tiêu hết phước đức, các thiện quỷ thần đều xa lánh. Họ côi cút một mình và cũng chẳng có nơi nào để dựa. Bởi các nghiệp làm đều lưu giữ trong tạng thức, cho nên khi thọ mạng chấm dứt, các điều ác liền tự nhiên hiện đến và kéo họ đọa vào ác đạo. Do bởi tai ương dẫn dắt nên sa vào ác đạo, họ tự nhiên thọ lấy tội báo mà chẳng thể thoát ra. Họ phải rơi vào trong vạc lửa bỏng, thân tâm tan nát và tinh thần thống khổ. Lúc đó có hối hận thì cũng đã quá muộn. Thiên đạo có những việc như thế và không bao giờ sai trật.

Do vậy, chốn tam đồ tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển trong đó đến chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ tư, loại thống khổ thứ tư, và sự thiêu đốt thứ tư.

Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ đắc giải thoát, có được phước đức, hoặc thăng lên cõi trời, hay chứng Đạo Niết-bàn. Đây là điều thiện lớn thứ tư.”

15. Việc Ác Thứ Năm và Điều Thiện Thứ Năm

Đức Phật bảo:

“Việc đại ác thứ năm là thế này. Người ở thế gian hay có tánh lười biếng và thích ỷ lại. Họ chẳng chịu làm việc thiện, chẳng siêng năng làm việc và để mặc cho gia đình quyến thuộc bị đói rét khốn khổ. Khi cha mẹ dạy bảo điều chi, họ giận dữ trợn trừng con mắt mà nói lời bất kính, ngược ngạo hỗn xược ví như là oan gia. Có đứa con ngỗ nghịch như thế thì cũng như là chẳng có. Chúng lại không giữ phép tắc, vong ân phụ nghĩa, và chẳng có tấm lòng báo đáp. Thế nên mọi người đều xa ghét và phải chịu bần cùng khốn khổ đến chẳng thể xoay sở, rồi nghĩ cách mưu đoạt tài sản của người khác, chơi bời lêu lổng, và gian lận mưu sinh. Lại đam mê tửu sắc, ăn uống không có chừng mực, phóng đãng buông xuôi, ẩu đả lỗ mãng, ức hiếp người khác, và chẳng biết nhân tâm.

Khi thấy có người thiện, lòng sanh ganh ghét, bất nghĩa vô lễ và chẳng chút kiêng nể. Họ tự làm theo sở thích và không một ai có thể khuyên can. Chúng chẳng màng đến lục thân quyến thuộc, không nghĩ đến trọng ân của cha mẹ, và chẳng nhớ ơn nghĩa của thầy bạn. Thân luôn làm việc xấu, khẩu thường nói lời dữ, và ý hằng nhớ điều ác. Trọn đời họ chưa từng làm một việc lành nào cả. Không tin tiên thánh và Kinh Pháp của chư Phật. Không tin tu Đạo sẽ siêu xuất thế gian. Không tin sau khi chết, thần thức sẽ dẫn đi chuyển sanh. Không tin làm thiện gặp lành, làm ác gặp dữ. Chúng chỉ muốn giết người hiền, phá hoại Tăng đoàn, sát hại cha mẹ và anh em quyến thuộc. Cho nên bà con họ hàng căm ghét và nguyền rủa cho chúng mau chết đi.

Tâm ý người đời phần lớn là như vậy. Ngu si mê muội mà cứ tưởng mình là thông minh. Họ chẳng biết từ đâu sinh đến, khi chết sẽ đi về đâu. Lại còn bất nhân ngỗ nghịch, chẳng thuận theo đạo lý của trời đất. Họ hy vọng cầu may và muốn được trường thọ, nhưng kết cuộc là phải bị chết một cách oan uổng. Giả như có Thiện Tri Thức từ tâm dạy bảo là hãy nhớ tưởng đến việc lành, khai thị nỗi khổ của sanh tử và quả báo của thiện ác đều tự nhiên thật có thì họ chẳng chịu tin. Thế nên làm cho các vị ấy nhọc lòng khuyên nhủ mà không giúp được gì, bởi trong tâm họ đã tắc nghẽn và ý chẳng thể khai mở. Thế rồi khi sắp lìa đời, họ phập phồng lo sợ và ăn năn nuối tiếc. Lúc sinh thời không sớm tu thiện, khi lâm chung mới hối hận thì có lợi ích gì?

Trong trời đất có ngũ đạo rành rẽ như vậy, rộng lớn sâu xa và mênh mông thăm thẳm. Thiện ác báo ứng, họa phước theo sát, tự mình phải gánh lấy và sẽ không một ai thay thế. Luật nhân quả tự nhiên ứng theo nghiệp của mỗi người và bám dính chẳng rời xa. Người thiện làm việc lành nên thọ hưởng an vui, do nghiệp thanh tịnh nên sẽ sinh về cõi quang minh. Người ác làm việc xấu nên chuốc lấy khổ đau, do nghiệp đen tối nên sẽ đọa xuống chốn âm u. Ngoài Phật ra, ai có thể biết rõ? Dẫu có người dạy bảo nhưng có mấy ai tin. Cho nên cứ lẩn quẩn trong sanh tử không ngừng, sa đọa vào chốn ác đạo không dứt. Người thế tục là như thế, khó mà kể cho hết.

Do vậy, chốn tam đồ tự nhiên hình thành và có vô lượng khổ não. Họ lưu chuyển trong đó đến chẳng có kỳ hạn ra khỏi. Rất khó được giải thoát và thống khổ không thể tả. Đây là việc đại ác thứ năm, loại thống khổ thứ năm, và sự thiêu đốt thứ năm.

Những sự khổ đau như thế ví như lửa lớn đốt cháy thân người. Nếu có ai tuy cũng ở trong hoàn cảnh ấy mà nhất tâm giữ ý, thân nghiệp chân chánh, luôn làm các việc thiện, và không làm các điều ác thì họ sẽ đắc giải thoát, có được phước đức, hoặc thăng lên cõi trời, hay chứng Đạo Niết-bàn. Đây là điều thiện lớn thứ năm.”

16. Đức Phật Căn Dặn Thêm

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Như Ta đã nói với các ông, người ở thế gian bị năm việc xấu ác, năm loại thống khổ, và năm sự thiêu đốt; làm cho khổ sở như thế và sanh khởi tương tục. Họ chỉ làm các điều ác và chẳng tu căn lành. Thế nên tự nhiên phải đọa vào các đường ác. Hoặc ở hiện đời, có tội ác chiêu cảm mà mọi người đều trông thấy. Như là có kẻ bị mắc bệnh hiểm nghèo, cầu chết không được mà cầu sống cũng chẳng xong. Sau khi mạng chung, họ phải sa vào ba đường ác để thọ lấy vô lượng thống khổ, thân tâm bị thiêu đốt đến thời gian rất lâu.

Những người đó cùng nhau kết tạo oán thù; bắt đầu từ nho nhỏ rồi dần đến thành việc đại ác. Đây là do bởi lòng tham lam tài sắc nên chẳng hề chịu bố thí. Tư tưởng bị dục vọng cuồng si bức bách, tâm bị phiền não trói buộc, và chẳng có phương cách giải tỏa. Họ tranh giành lợi dưỡng cho bản thân mà không hề phản tỉnh. Khi được phú quý vinh hoa, họ khoái chí và không thể nhẫn chịu nghịch cảnh hay tu tạo việc lành. Quyền thế nhỏ nhoi chẳng mấy chốc tiêu tan và rồi phải tự thọ lấy nỗi thống khổ cùng cực. Thiên đạo tự nhiên và ví như màn lưới bao phủ, trên dưới khắp nơi. Những kẻ ấy khi bị rơi vào trong đó rồi mới lo lắng kinh hoàng. Từ xưa đến nay có những việc thương đau và đáng thương như vậy.”

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Thế gian là như vậy! Cho nên chư Phật đều thương cảm và dùng sức uy thần để tồi diệt các điều ác và làm cho họ lìa bỏ những tập khí xấu, khiến họ có thể phụng trì Kinh giới, tu hành Đạo Pháp mà chẳng hề xao lãng hay sai phạm. Họ cuối cùng sẽ siêu xuất thế gian và đắc Đạo Niết-bàn.”

Đức Phật bảo:

“Ông cùng hàng trời người và những chúng sanh đời sau, khi nghe được lời Phật dạy nên khéo tư duy nghĩa lý, tâm ngay thẳng, và hạnh làm phải chân chánh. Ví như có vị thống lãnh làm việc lành thì sẽ làm gương cho quần thần. Sau đó quần thần sẽ triển chuyển gương ấy đến kẻ dưới. Tất cả đều nên chánh trực ngay thẳng, tôn kính thánh hiền, kính trọng người thiện, nhân từ bác ái, và đừng nên phụ lòng lời khuyên bảo của Như Lai. Tất cả nên cầu siêu xuất thế gian, đoạn trừ gốc rễ của sanh tử và các điều ác. Như thế sẽ xa lìa vô lượng lo sợ và sự thống khổ của chốn tam đồ.

Các ông nên rộng gieo trồng căn lành, thường hành Bố Thí, siêng Trì Giới, luôn Nhẫn Nhục, hằng Tinh Tấn, trụ Thiền Định, và nhập Trí Tuệ. Sau đó, hãy dạy bảo người khác. Lại phải nên tu đức hành thiện và trực tâm chánh ý. Phàm ai có thể trong một ngày một đêm với trai giới thanh tịnh thì sẽ thắng hơn làm thiện 100 năm ở cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Vì sao thế? Bởi cõi nước của Đức Phật kia vô vi tự nhiên đều tích tập các việc lành; việc dữ như chừng bằng sợi tóc cũng chẳng có. Như có ai ở thế giới này trong mười ngày mười đêm tu thiện thời sẽ vượt hơn làm thiện 1.000 năm ở các quốc độ của chư Phật phương khác.

Vì sao thế? Bởi dân chúng trong cõi nước của chư Phật phương khác đa số làm việc lành và ít người làm việc dữ. Họ tự nhiên làm các việc phước đức và không tạo các việc ác. Trái lại ở thế giới này, việc ác thì nhiều còn việc thiện thì chẳng tự nhiên có. Con người vì dục vọng mà gian nan truy cầu và lợi dụng lẫn nhau. Thế nên, làm cho khổ tâm nhọc xác, như ăn phải vị đắng và uống thuốc độc. Các việc như thế đến chẳng bao giờ thôi nghỉ.

Ta vì thương xót các ông cùng hàng trời người nên hết lòng khuyên nhủ và dạy bảo tu thiện. Ta tùy theo khả năng của mỗi người mà chỉ dẫn và dạy thọ trì Kinh Pháp để đều được chứng Đạo như sở nguyện. Ở những quốc gia hay thành thị xóm làng nào có Phật châu du giáo hóa thì không một ai là chẳng được hóa độ. Nơi đó sẽ thái bình, trời trong trăng sáng, mưa gió thuận hòa, thiên tai và bệnh dịch sẽ không khởi lên, quốc thái dân an, và không có binh lửa chiến tranh. Dân chúng sẽ yêu mến đạo đức và giàu lòng nhân từ. Họ sẽ học theo lễ nghĩa và biết khiêm nhường.”

Đức Phật bảo:

“Ta thương xót các ông và hàng trời người còn hơn cha mẹ thương nhớ con cái. Ta nay ở thế giới này làm Phật, điều phục năm việc xấu ác, diệt trừ năm loại thống khổ, và đoạn tuyệt năm sự thiêu đốt. Ta dùng thiện để chuyển hóa ác và bạt trừ thống khổ của sanh tử, khiến chúng sanh được năm thứ đức và thăng lên nơi an vui của vô vi Niết-bàn. Nhưng sau khi Ta diệt độ, Kinh Pháp sẽ dần dần diệt mất. Dân chúng sẽ bắt đầu gian xảo và làm các việc ác trở lại. Cho nên họ phải thọ lấy năm loại thống khổ và năm sự thiêu đốt như trước kia. Về sau sẽ chuyển thành kịch liệt hơn, khổ không thể tả! Ta vì ông nên lược nói như thế.”

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Các ông nên khéo tư duy và học hỏi lẫn nhau, phải đúng như Pháp của Phật dạy và cũng đừng vi phạm.”

Khi ấy, Di-lặc Bồ-tát chắp tay bạch Phật rằng:

“Lời của Phật nói rất thâm sâu và chân thiện. Nhân thế quả đúng như vậy. Như Lai với lòng từ bi rộng lớn nên khiến hết thảy đều được độ thoát. Chúng con xin lãnh thọ lời dạy thâm trọng của Phật và sẽ không dám vi phạm hay lãng quên.”

17. Đức Phật Vô Lượng Thọ và Tịnh Độ của Ngài

Phật bảo ngài A-nan:

“Ông hãy đứng dậy, chỉnh y phục, rồi chắp tay cung kính và hãy đảnh lễ Đức Phật Vô Lượng Thọ. Chư Phật Như Lai trong mười phương quốc độ thường đồng ngợi khen và tán thán Đức Phật kia, là bậc vô trước vô ngại.

Lúc bấy giờ, ngài A-nan đứng dậy, chỉnh y phục, và mặt xoay về hướng tây. Rồi ngài chắp tay cung kính, cúi đầu đảnh lễ sát đất, và đảnh lễ Đức Phật Vô Lượng Thọ. Khi đã đảnh lễ xong, ngài bạch với Đức Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Con nguyện muốn thấy Đức Phật Kia cùng cõi nước An Lạc, chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn đại chúng.”

Khi vừa nói lời ấy xong, Đức Phật Vô Lượng Thọ phóng đại quang minh, chiếu khắp tất cả thế giới của chư Phật. Núi Kim Cang, núi Thiết Vi, vua núi Diệu Cao, và các núi lớn nhỏ, tất cả đều đồng một màu sắc. Ánh sáng giống như nước trùm khắp thế giới khi đến kiếp thủy tai. Hết thảy vạn vật ở trong đó đều chìm chẳng hiện, duy chỉ thấy nước lớn mênh mông. Ánh quang minh của Đức Phật kia cũng lại như vậy. Tất cả hào quang của Thanh Văn và Bồ-tát thảy đều che mờ, duy chỉ thấy ánh hào quang của Phật sáng chói hiển hách.

Lúc bấy giờ, ngài A-nan liền thấy uy đức lồng lộng của Đức Phật Vô Lượng Thọ, như vua núi Tu-di, cao hơn trên tất cả thế giới. Tướng hảo quang minh của Ngài chiếu soi sáng khắp. Khi ấy, bốn chúng đệ tử trong Pháp hội này đều đồng một lúc thấy quốc độ kia và đại chúng trong cõi nước đó cũng lại như vậy.

Lúc bấy giờ Phật bảo ngài A-nan và Từ Thị Bồ-tát:

“Ông có thấy cõi nước kia, từ dưới đất lên đến trời Tịnh Cư, tất cả mọi vật ở trong đó đều tự nhiên thanh tịnh và vi diệu trang nghiêm chăng?”

Ngài A-nan thưa rằng:

“Dạ vâng, đã thấy!”

“Ông lại có nghe Đức Phật Vô Lượng Thọ dùng đại âm thanh tuyên cáo đến tất cả thế giới để giáo hóa chúng sanh chăng?”

Ngài A-nan thưa rằng:

“Dạ vâng, đã nghe!

“Chúng sanh ở cõi nước kia du hành trong cung điện bảy báu lớn bằng trăm ngàn do-tuần đến khắp mười phương cúng dường để chư Phật mà không bị chướng ngại. Ông lại có thấy chăng?”

Ngài A-nan thưa rằng:

“Dạ vâng, đã thấy!”

“Có chúng sanh ở cõi nước kia hóa sinh từ thai sanh trong hoa sen (2). Ông lại có thấy chăng?”

Ngài A-nan thưa rằng:

“Dạ vâng, đã thấy!”

“Những ai hóa sinh từ thai sanh sẽ ở trong cung điện rộng lớn 100 do-tuần hay 500 do-tuần. Họ thọ hưởng các sự vui sướng nơi đó như ở trời Đao-lợi.”

18. Thai Sanh Do Bởi Hoài Nghi

Lúc bấy giờ Từ Thị Bồ-tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có chúng sanh ở cõi nước kia hóa sanh hay thai sanh?”

Phật bảo ngài Từ Thị:

“Nếu có chúng sanh nào nguyện sinh về cõi nước kia nhưng tu các công đức với lòng hoài nghi. Họ không thấu hiểu trí tuệ của Phật, trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, trí tuệ bất khả xưng tán, trí tuệ Đại Thừa quảng rộng, trí tuệ vô đẳng vô luân, trí tuệ tối thắng vô thượng, và nghi ngờ hay chẳng tin các trí tuệ như thế. Tuy nhiên, do bởi tin tội phước cùng tu tập căn lành, và nguyện vãng sanh về cõi nước kia, nên cũng được vãng sanh. Họ sống trong cung điện nơi đó 500 năm và chẳng hề thấy Phật, không nghe Kinh Pháp, chẳng thấy chư Bồ-tát cùng hàng Thanh Văn thánh chúng. Cho nên ở quốc độ kia gọi là thai sanh.

Nếu có chúng sanh nào tin sâu và rõ biết trí tuệ của Phật, cho đến trí tuệ tối thắng, rồi làm các việc công đức và tín tâm hồi hướng thì những chúng sanh này sẽ ngồi kiết già ở trong thất bảo liên hoa và tự nhiên hóa sanh. Trong khoảnh khắc, thân tướng quang minh và trí tuệ công đức của họ sẽ thành tựu đầy đủ như chư Bồ-tát đã ở đó.

Lại nữa, Từ Thị! Nếu có chư đại Bồ-tát nào ở tha phương quốc độ phát tâm muốn thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng để cung kính cúng dường, thì khi những Bồ-tát này mạng chung, họ sẽ vãng sanh đến cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ và ở trong hoa sen bảy báu mà tự nhiên hóa sanh.

Này Di-lặc! Ông nên biết những bậc kia có trí tuệ thù thắng, còn hàng thai sanh có trí tuệ thấp kém. Trong 500 năm, họ chẳng hề thấy Phật, không nghe Kinh Pháp, chẳng thấy chư Bồ-tát cùng hàng Thanh Văn thánh chúng. Họ không thể cúng dường chư Phật và chẳng biết Pháp tu tập của Bồ-tát nên không được công đức. Phải biết, đây là do bởi những người này thiếu trí tuệ và khởi lòng nghi hoặc ở đời trước.”

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có cung điện đặc biệt được trang nghiêm bằng bảy báu với giường nệm, màn che, và treo các lọng lụa. Nếu có các tiểu hoàng tử đắc tội với vua cha, thì sẽ giam ở trong cung điện kia và siết lại với ổ khóa vàng. Họ được cung cấp ẩm thực, y phục, giường nệm, và hương hoa âm nhạc như vua Chuyển Luân, không chút thiếu hụt.

Ý ông nghĩ sao? Các hoàng tử này có vui thích nơi đó chăng?”

Ngài Di-lặc thưa rằng:

“Dạ không! Họ luôn dùng đủ mọi cách và mong có sức mạnh để muốn được ra khỏi.”

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Những chúng sanh này cũng lại như vậy. Do bởi hoài nghi trí tuệ của Phật nên phải sinh về cung điện kia. Tuy ở đó không có hình phạt và cho đến một niệm nghĩ đến việc ác cũng không, nhưng họ sẽ phải ở trong đó 500 năm. Họ chẳng thấy Tam Bảo và không thể cúng dường hoặc tu các thiện căn. Đây gọi là khổ. Mặc dù có nhiều sự vui sướng nhưng họ chẳng ưa thích nơi đó. Tuy nhiên, nếu những chúng sanh này tỉnh ngộ nghiệp tội của đời trước, rồi ăn năn tự trách, và cầu mong ra khỏi nơi ấy thì lập tức sẽ được như ý. Sau đó, họ liền đến Đạo Tràng của Đức Phật Vô Lượng Thọ và cung kính cúng dường. Họ cũng có thể đến vô lượng vô số Đạo Tràng của chư Như Lai để tu hành các công đức.

Này Di-lặc! Ông nên biết, nếu có Bồ-tát nào sanh tâm hoài nghi thì sẽ mất những đại lợi. Vì thế, hành giả phải nên biết và tin sâu trí tuệ vô thượng của chư Phật.”

19. Chư Bồ-tát Vãng Sanh ở Quốc Độ Này và Các Cõi Nước Phương Khác

Di-lặc Bồ-tát bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Ở thế giới này có bao nhiêu bất thối chuyển Bồ-tát đã vãng sanh về cõi nước của Đức Phật kia?”

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Ở thế giới này có 67 ức bất thối chuyển Bồ-tát đã vãng sanh về quốc độ ấy. Mỗi vị Bồ-tát đó đều từng cúng dường vô số chư Phật và công đức chỉ sau Di-lặc ông đây. Trong vị lai sẽ có không thể tính xuể các tiểu hạnh Bồ-tát cùng những vị hành giả ít công đức đều sẽ vãng sanh đến đó.”

Phật bảo ngài Di-lặc:

“Không chỉ riêng chư Bồ-tát ở quốc độ của Ta sẽ vãng sanh về cõi nước kia mà các cõi nước của chư Phật ở phương khác cũng lại như vậy.

– Đức Phật thứ nhất hiệu là Viễn Chiếu, có 180 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ nhì hiệu là Bảo Tạng, có 90 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ ba hiệu là Vô Lượng Âm, có 220 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ tư hiệu là Cam Lộ Vị, có 250 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ năm hiệu là Long Thắng, có 14 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ sáu hiệu là Thắng Lực, có 14.000 Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ bảy hiệu là Sư Tử, có 500 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ tám hiệu là Ly Cấu Quang, có 80 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ chín hiệu là Đức Thủ, có 60 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ mười hiệu là Diệu Đức Sơn, có 60 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ mười một hiệu là Nhân Vương, có 10 ức Bồ-tát, đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ mười hai hiệu là Vô Thượng Hoa, có không thể tính kể số chư Bồ-tát. Tất cả đều được bất thối chuyển, có trí tuệ dũng mãnh, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, và ở trong bảy ngày liền có thể nhiếp thủ các Pháp kiên cố của bậc Đại sĩ tu suốt trăm ngàn thiên ức kiếp. Chư Bồ-tát này đều sẽ vãng sanh đến đó.

– Đức Phật thứ mười ba hiệu là Vô Úy, có 790 ức chư đại Bồ-tát và không thể tính kể số các tiểu Bồ-tát cùng Tỳ-kheo, đều sẽ vãng sanh đến đó.”

Phật bảo ngài Di lặc:

“Không những chỉ 14 Phật độ trên có chư Bồ-tát ở đó sẽ vãng sanh đến cõi nước kia, mà chư Bồ-tát trong mười phương vô lượng thế giới của chư Phật sẽ vãng sanh cũng lại như vậy. Số ấy nhiều vô số kể. Nếu Ta ngày đêm chỉ nói về danh hiệu của thập phương chư Phật cùng chư Bồ-tát và Tỳ-kheo, sẽ vãng sanh về cõi nước kia đến trọn một kiếp thì cũng chẳng thể hết. Ta nay vì ông nên lược nói như thế.”

IX. PHẦN LƯU THÔNG

Phật bảo ngài Di lặc:

“Nếu có ai nghe được danh hiệu của Đức Phật kia và vui mừng hớn hở cho đến chỉ một niệm, thì phải biết người này sẽ được lợi ích lớn và đầy đủ vô thượng công đức. Thế nên, Di-lặc! Dù cho có lửa lớn tràn ngập Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới thì hành giả cũng phải nên vượt qua để đến nghe Kinh Pháp này. Nghe xong, lòng hoan hỷ tín mến, thọ trì đọc tụng, và sẽ như Pháp tu hành.

Vì sao thế? Bởi có rất nhiều vị Bồ-tát muốn nghe Kinh này mà chẳng thể được.

Nếu có chúng sanh nào nghe được Kinh này thời sẽ không bao giờ thối chuyển nơi Đạo vô thượng. Thế nên, họ phải nhất tâm tín thọ, trì tụng thuyết giảng, và như Pháp tu hành.

Ta nay vì các chúng sanh mà thuyết Kinh Pháp này, khiến cho họ thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ cùng quốc độ của Ngài, để họ phát tâm tu hành và dứt trừ lòng nghi hoặc sau khi Ta diệt độ.

Trong đời vị lai, Kinh Đạo sẽ diệt tận. Ta vì lòng từ bi thương xót nên đặc biệt lưu lại Kinh này trên thế gian thêm 100 năm. Nếu có chúng sanh nào gặp Kinh này thời sẽ tùy ý như sở nguyện và đều được độ thoát.”

Phật bảo ngài Di lặc:

“Như Lai xuất hiện ở đời, khó gặp khó thấy. Kinh Đạo của chư Phật, rất khó được nghe. Các Pháp Ba-la-mật thù thắng của chư Bồ-tát, cũng khó mà nghe được. Gặp Thiện Tri Thức và có thể tu hành theo Pháp đã nghe, lại càng khó hơn. Như nghe được Kinh này, rồi tư duy nghĩa ý và tín mến thọ trì, thì là khó trong cái khó. Không gì khó hơn việc này.

Vì thế, Pháp của Như Lai là thực hành như vậy, tuyên nói như vậy, và giảng dạy như vậy. Các ông nên tín thuận và như Pháp tu hành.”

Khi Đức Thế Tôn thuyết Kinh Pháp này, có vô lượng chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. 12.000 na-do-tha người được Pháp nhãn thanh tịnh. 22 ức người và chư thiên đắc quả A-na-hàm. 80.000 Tỳ-kheo được lậu tận ý giải. 40 ức chư Bồ-tát được bất thối chuyển với công đức cùng hoằng thệ nguyện mà dùng để trang nghiêm nơi thân. Vào đời vị lai, họ sẽ thành Chánh Giác.

Bấy giờ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách. Ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương quốc độ. Trăm ngàn âm nhạc tự nhiên trỗi lên và có vô lượng diệu hoa rơi xuống.

Lúc Phật thuyết Kinh này xong, Di-lặc Bồ-tát cùng chư Bồ-tát đã đến từ mười phương, Trưởng lão A-nan, chư đại Thanh Văn, và tất cả đại chúng khi nghe lời Phật dạy, không ai là chẳng hoan hỷ.

X. MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH

Khi Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không và vượt qua hết thảy khổ ách.

Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng khác không; không chẳng khác sắc. Sắc tức là không; không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.

Này Xá-lợi Tử! Các pháp đều không tướng: không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không: không có sắc, không có thọ tưởng hành thức; không có mắt tai mũi lưỡi thân ý; không có sắc thanh hương vị xúc pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Không có khổ tập diệt đạo; không có trí tuệ và cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ-Tát y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Do không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, và đạt tới cứu cánh Niết-bàn.

Chư Phật ba đời đều y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phải biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Có thể diệt trừ hết thảy khổ, chân thật bất hư.

Cho nên chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã tuyên nói . Chú thuyết như vầy:

Yết-đế yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha. (3 lần)

XI. VÃNG SINH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ

Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tì ca lan đế. A di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.(3 lần)

Phục Nguyện:

Cúi lạy mười Phương chư Phật, chư Đại Bồ tát, chư hiền Thánh Tăng, Thiên Long Bát Bộ, Già Lam Hộ Pháp, thùy từ chứng minh gia hộ cho đệ tử tánh danh …… Pháp danh ……sanh ………tuổi ………. nghiệp chướng tiêu trừ, phước lành tăng trưởng, bệnh căn thuyên giảm, bệnh nghiệp dứt trừ, sở cầu như ý, tăng tiến bồ đề, lâm chung chánh niệm, được vãng sanh Cực Lạc quốc.

Phật A Di Ðà thân sắc vàng

Tướng tốt quang minh không ai bằng

Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di

Mắt Phật xanh biếc như bốn biển

Trong quang minh có vô số hoá Phật

Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh

Chín phẩm sen vàng lên bờ giác.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật,

A Di Đà Phật (108,1080 hay nhiều hơn)

XII. PHÁT NGUYỆN ĐẢNH LỄ PHẬT A DI ĐÀ, CẦU VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC

(Đọc lời phát nguyện này trước khi đảnh lễ Phật A Di Đà)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Thân thể Không Đau Bệnh. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Tâm Hồn Không Hôn Mê. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Không tham đắm ngũ dục. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Tâm niệm phật Di Đà. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Xả ly ta bà khổ. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Hân nguyện về tịnh độ. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Con thấy kim thân Phật. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho Đến Lúc Lâm Chung

Phật phóng quang nhiếp độ. o (1 lạy)

Kính lạy Phật Di Đà

Con nay xin phát nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Cho đến Lúc Lâm Chung

Liên Hoa Con Hóa Sanh. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Khi Vãng Sanh Tịnh Độ

Hoa Nở Tâm Khai Ngộ. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Khi Vãng Sanh Tịnh Độ

Chứng Ngộ Pháp Vô Sanh. o (1 lạy)

Kính Lạy Phật Di Đà

Con Nay Xin Phát Nguyện

Thường Xuyên Đảnh Lễ Ngài

Khi Vãng Sanh Tịnh Độ

Chóng Viên Thành Toàn Giác. o (1 lạy)

Nam mô pháp giới tạng thân A di đà Phật. o (3 lần)

XIII. PHÁT NGUYỆN VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG

Đệ tử chúng con,

hiện là phàm phu,

trong vòng sanh tử,

tội chướng sâu nặng,

luân chuyển sáu đường,

khổ không nói được,

nay gặp tri thức,

được nghe danh hiệu,

bản nguyện công đức,

Phật A Di Đà,

một lòng xưng niệm,

cầu nguyện vãng sanh,

nguyện Phật từ bi,

xót thương chẳng bỏ,

phóng quang nhiếp thọ,

đệ tử chúng con,

chưa biết Phật Thân,

tướng tốt quang minh,

nguyện Phật thị hiện,

cho con được thấy,

lại thấy tướng mầu,

Quán Âm Thế Chí,

Các chúng Bồ Tát,

và thế giới kia,

thanh tịnh trang nghiêm,

vẻ đẹp quang minh,

xin đều thấy rõ.

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,

A Di Đà đến rước từ xa,

Quan Âm cam lồ rưới nơi đầu,

Thế Chí Kim đài trao đỡ gót,

Trong một sát na lìa ngũ trược,

khoảng tay co duỗi đến Liên Trì,

khi hoa sen nở thấy Từ Tôn,

nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ,

nghe xong liền ngộ vô sanh nhẫn,

không rời an dưỡng lại Ta Bà,

khéo đem phương tiện lợi quần sanh,

hay lấy trần lao làm Phật sự,

con nguyện như thế Phật chứng tri,

kết cuộc về sau được thành tựu.

Niệm Phật,

Lạy Phật công đức thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi hướng,

Phổ nguyện Pháp giới chư chúng sanh,

Tốc vãng vô lượng quang Phật sát

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não.

Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu.

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

Thế thế thường hành Bồ Tát đạo

Nguyện sanh Tây Phương tịnh độ trung.

Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,

Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ,

Nguyện dĩ thử công đức, .

Phổ cập ư nhất thiết

Ngã đẵng dữ chúng sanh

Giai cộng thành Phật đạo.

Phục Nguyện

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật Liên Toà Chứng Minh.

Phục Nguyện, thượng chúc Phật nhật tăng huy pháp luân thường chuyển, phong điều vũ thuận, quốc thới dân an, thế giới hoà bình chúng sanh an lạc. Đệ tử chúng con nguyện đem công đức này hồi hướng trang nghiêm Tây Phương Phật tịnh độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, xin hồi hướng oan gia trái chủ trong nhiều đời nhiều kiếp, cũng như hiện tại, hữu hình và vô hình, nếu có ai thấy nghe đều phát tâm Bồ Đề, hết một báo thân này, sanh qua cõi Cực Lạc.

Đệ tử chúng con nguyện cầu Đức Phật A Di Đà chấn tích quang lâm phóng ngọc hào quang gia hộ đệ tử chúng con biết trước giờ lâm chung, thân không tật bệnh, tâm không hôn mê, nhất tâm niệm Phật, Phật và thánh chúng tay cầm đài vàng tiếp dẫn chúng con vãng sanh về tây phương Cực Lạc.

Đệ tử chúng con nguyện đức Quan Thế Âm Bồ Tát Thị từ chấn tích quan lâm phóng ngọc hào quang hộ đệ tử chúng con cùng tất cả chúng sanh thân tâm thường an lạc, tật bệnh tiêu trừ căn lành tăng trưởng, phước huệ trang nghiêm, xuân đa các khánh, hạ bảo bình an, thu tống tam tai đông nghinh bách phúc, một hậu đắc Di Đà thọ ký.

Đệ tử chúng con nguyện đức Phật A Di Đà thụy từ phóng ngọc hào quang, tiếp dẫn chư hương linh vong linh cửu huyền thất tổ thập nhị loại cô hồn ngạ quỷ hà xa, hữu vị vô danh, hữu danh vô vị nam nữ thương vong lai đáo Phật tiền văn kinh thính pháp tốc xả mê đồ siêu sanh tịnh độ. Phổ nguyện âm siêu dương thới pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình, đồng sanh Cực Lạc, đồng kiến Di Đà, Đồng Ngộ Vô Sanh. Đồng thành Phật Đạo.

XIV. TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. o (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. o (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, tất cả không ngại. o (1 lạy)

XV. HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tử và chúng sanh,

Đồng sanh về Tịnh Độ

Nam Mô A Di Đà Phật.