Theo kinh phật, Lễ Vu Lan được tổ chức vào 14 và 15 tháng 7 (Âm lịch). Tụng niệm trong mùa Lễ Vu Lan, nhớ lại công ơn sanh thành dưỡng dục của Cha Mẹ và gương hiếu hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên..
Theo phong thủy phương Đông, khi tụng Kinh Phật thì phật tử nên chí thành cầu chư Phật và Hiền, Thánh, Tăng từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, đa sanh phụ mẫu, lục thân quyến thuộc vân vân được sớm siêu thăng Phật quốc.
Các nghi thức trong Lễ Vu Lan
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)
I. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN:
Án lam tóa ha. (3 lần)
II. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:
Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
(Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương).
III. TÁN PHẬT
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thệ trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sinh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm bồ đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác
Ðấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tận hư không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Ta-Bà Giáo Chủ Ðiều-ngự Bổn-sư Thích Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Tây Phương Cực-Lạc thế-giới đại-từ đại bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán-Thế-Âm Bồ tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-Tát, Ðại Nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Ðại-Hải-Chúng Bồ-Tát. (1 lạy)
IV. TÁN LƯ HƯƠNG
Hương thơm vừa đốt lên
Pháp giới đều thấm nhuần
Hải hội chư Phật đều xa hay
Theo chỗ kết mây lành
Lòng thành mới ân cần
Chư Phật đều hiện thân.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
V. CHÚ ĐẠI BI
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni:
Nam mô hắc la đát na đa la dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bác ra da, bồ đề tát đoả bà da, ma ha tát đoả bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đoả, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đoả, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà ra đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
VI. KỆ KHAI KINH
Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 Lần)
VII. PHẬT NÓI KINH VU-LAN BỒN
Ta từng nghe lời tạc như vầy:
Một thuở nọ Thế-Tôn an-trụ,
Xá-Vệ thành Kỳ-Thụ viên trung,
Mục-Liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ-nhãn dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỉ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-Liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.
Lo phẩm-vậy đem dâng từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm, mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu,
Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-Kiền-Liên bi cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng Sư-phụ tìm phương giải-nàn.
Phật mới bảo rõ-ràng căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu Thiên.
Cùng là các bực Thần-kỳ,
Tà, ma ngoại-đạo, bốn vì Thiên-Vương,
Cộng ba cõi sáu phương tu-tập,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mạng người.
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu-tế Ta toan giải nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn,
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân cần thiết thi,
Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ,
Mười phương Tăng đều dự lễ này,
Phải toan sắm-sửa chớ chầy,
Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót,
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu,
Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng,
Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực,
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng.
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền,
Ðặng nhờ phước lực tiêu-khiên ách-nàn.
Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ,
Dầu ở đâu cũng tụ hội về.
Như người Thiền định Sơn-khê,
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na,
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,
Công tu hành-nguyện thỏa vô-Sanh,
Hoặc người thọ hạ kinh-hành,
Chẳng ham quyền-quí ẩn danh lâm-tòng,
Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát,
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn,
Hoặc chư Bồ-tát mười phương,
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh,
Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh,
Ðạo-đức dày chánh-định chơn-tâm,
Tất cả các bực Thánh, Phàm,
Ðồng lòng thọ lãnh bát-cơm lục-hòa,
Người nào có sắm ra vật thực,
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời,
Hiện-tiền phụ mẫu của người,
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn,
Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi,
Cảnh thanh nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền.
Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ-trường,
Như cha me bảy đời quá-vãng,
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung,
Người thời tuấn-tú hình-dung,
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân,
Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng,
Phải tuân theo thể-thức sau nầy:
Trước khi thọ thực đàn chay,
Phải cầu chú nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ,
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên,
Cho xong định ý hành-thiền,
Mới dùng phẩm-vật đàn tiền hiến dưng.
Khi thọ-dụng, nên an vật-thực,
Trước Phật-đài hoặc tự tháp trung:
Chư Tăng chú nguyện viên dung,
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa,
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,
Mục-Liên cùng Bồ-tát chư Tăng,
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng,
Mục-Liên cũng hết khóc thương rầu buồn,
Mục-Liên Mẫu cũng trong ngày ấy,
Kiếp khổ về ngạ-quỉ được tan,
Mục-Liên bạch với Phật rằng:
Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn,
Lại cũng nhờ oai thần Tam-Bảo,
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia,
Vu-Lan-Bồn pháp dùng mà độ sanh.
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế,
Hoặc bảy đời có thể đặng không?
Phật rằng: lời hỏi rất thông,
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo,
Thiện-nam tử, tỳ-kheo nam-nữ,
Cùng Quốc-vương, Thái-tử, Ðại-thần,
Tam-công, tể-tướng, bá-quan,
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần,
Như chí muốn đền ơn cha mẹ,
Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm,
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm,
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về,
Chính ngày ấy Phật, đã hoan-hỷ,
Phải sắm sanh bá vị cơm canh,
Ðựng trong bình-bát tinh anh,
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường,
Ðặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ,
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi,
Cùng cầu thất-thế đồng thì,
Lìa nơi ngạ-quỉ sanh về nhơn, thiên,
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp.
Lại xa lìa nạn khổ cực thân,
Môn-sanh Phật-tử ân cần,
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên.
Thường cầu nguyện thung-huyên an-hảo,
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm,
Vì lòng hiếu-thảo ơn-thâm phải đền.
Lễ cứu-tế chí-thành sắp đặt,
Ngõ cúng-dường chư Phật chư Tăng.
Ấy là báo đáp, thù ân,
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu,
Ðệ-tử Phật, lo âu gìn-giữ,
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn,
Vừa nghe dứt pháp Lan-Bồn,
Môn sanh tứ-chúng thảy đồng hỷ-hoan,
Mục-Liên với bốn ban Phật-tử,
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành,
Nam-mô Ðại hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát. (3 lần)
VIII. PHẬT NÓI KINH ÐẠI BÁO PHỤ MẪU TRỌNG ÂN
Một thuở nọ Thế-Tôn an-trụ
Xá-vệ thành kỳ-thụ Viên-trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra Tới số hai muôn tám ngàn
Lại cũng có các hàng Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bây giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành
Ðáo bán lộ rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế-Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng
Ðức A-Nan tủi lòng ái-ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội-vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ-phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính thầy dường ấy
Cớ sao thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa rõ đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:
Ðống xương dồn-dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh
Luân-hồi sanh-tử, tử-sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm-ngùi vì nhớ kiếp xưa
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai bên nữ bên nam
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng
Ðức A-Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân
Phật mới bảo A-Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng hoằng
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân-thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai
A-Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng-sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế-Tôn mới bảo lời rằng:
Vì người ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực-nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ-ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn-toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy-vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi-hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế-Tôn lại bảo A-Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười Phần phải tin
Ðiều thứ nhứt giữ-gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm-ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi-mê trăm phần
Ðiều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng uống cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm khô ráo phần con
Thứ sáu sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô-uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung-sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng-cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng thái-sơn
Phật lại bảo A-Nan nên biết:
Trong chúng-sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù-lao
Ấy là báo hiếu mặc giao
Ví những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân-thể hình-hài kém suy
Khi sanh-sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải lo săn-sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ-dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Aét con phải chịu trăm phần thảm-thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí-tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm
Công dưỡng-dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn nầy
Hoặc khi lầm-lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ-nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi chăng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ-mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung-hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành-hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ-dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồn công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì nợ vì con
Quên cha quên mẹ tình-thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bịnh giữa đường
Không!người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao-xác buồn rầu
Thương con than khóc âu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn-vương
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mải miết với đồng bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng-dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo-bổ cù-lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiên
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng Ðại-chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất lấy cây lấy củi
Ðập vào mình vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế-Tôn mẫn cố bi ân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dùng phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng Ðại-chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng-nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu-di
Ðến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân nầy
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh-dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đắp đền
Ví có người vì công dưỡng-dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng-dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân-thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràng khó nổi cấm ngăn
Ðồng thanh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng ân thâm song đường
Phật mới bảo các hàng Phật-tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Chúng ngươi muốn đáp ân dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam-Bảo sớm trưa,
Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự-tứ,
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ cu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ,
Hoặc sanh về Tịnh-độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù-ân
Sanh thành dưỡng-dục song thân của mình.
Mình còn phải cần chuyên trì giới,
Pháp Tam-qui ngũ giới giữ-gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá nên y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ Vô Gián cũng gọi A-tỳ
Ngục này trong núi Thiết-vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhơn hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhơn hành-hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt ra đau thấu tâm can
Lại có chó sắt cắn gan
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nắm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quây chúng nó da phồng thịt thau
Móc bằng sắt thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng trâu cầy lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A-tỳ ngục
Rất nặng-nề ngỗ nghịch song thân
Chúng người đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoản trên
Nhất là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế-Tôn
Nếu in được ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong Tứ-chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cầy
Ðến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên
Ví như bị đá thiên đao kiếm
Khắp thân nầy đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai
Dẫu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên
Ðức A-Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế-Tôn đặt để hiệu kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A-Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên “BÁO HIẾU MẸ CHA”
Cùng là “ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu-đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn hàng Phật-tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau trở lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.
IX. SÁM VU-LAN
Ðệ-tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng bảy,
Gặp Hội Vu-Lan,
Phạm Vũ huy-hoàng,
Ðốt hương đảnh lễ.
Mười phương Tam-thế,
Phật, Pháp, Thánh, Hiền,
Noi gương Ðức Mục-Kiền-Liên,
Nguyện làm con thảo,
Lòng càng áo-não,
Nhớ nghĩa thân sanh,
Con đến trưởng-thành,
Mẹ dày gian khổ,
Ba năm nhủ bộ,
Chín tháng cưu mang.
Không ngớt lo toan,
Quên ăn bỏ ngủ,
Ấm no đầy đủ,
Cậy có công cha,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lủ,
Quyết cùng hoàng-vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Ðem đường học đạo,
Ðệ-tử ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kính,
Ðạo tràng thanh-tịnh,
Tăng-bảo trang-nghiêm.
Hoặc thừa tự-tứ.
Hoặc hiện tham-thiền,
Ðầy đủ thiện duyên,
Dủ lòng lân-mẫn,
Hộ-niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Ðượm nhuần mưa Pháp,
Còn tại thế:
Thân tâm an ổn,
Phát nguyện tu trì,
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa,
Chóng thành Phật-quả,
Ngữa trông các Ðức Như-Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia hộ.
Vu Lan tán
Vu Lan chánh giáo Tự Tứ oai thần
Mục Liên sầu khổ
Xin cứu từ thân, oai linh Phật tổ
Tế độ vong linh
U Minh thoát khổ
Vạn khổ xưng danh
Ðại hùng đại lực đại từ bi
Ðại hỉ đại xả tế hàm thức
Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm
Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.
X. MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM-KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)
XI. VÃNG-SANH QUYẾT-ÐỊNH CHƠN-NGÔN:
Nam-mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha.
A di rị đô bà tỳ,
A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tì ca lan đế,
A di rị đa, tì ca lan đa,
Dà di nị dà dà na,
Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
XII. TÁN PHẬT
A-Di-Ðà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,
Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải.
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Phật.
Nam-mô A-Di-Ðà Phật. (108 lần)
XIII. NIỆM TỨ THÁNH
Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát. (10 lần)
Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (10 lần)
Nam-mô Ðịa-Tạng Vương Bồ-tát. (10 lần)
Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng Bồ-tát. (10 lần)
XIV. HỒI HƯỚNG
Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,
Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.
XV. TAM QUY-Y:
Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
Có thể bạn quan tâm: